
vẫn ở cùng mọi người, mỗi tuần mới về một lần, có lúc đem rau ở nhà lên cho.
Thu phụ trách nấu nướng, muốn trả tiền cho thầy, hỏi thầy bao nhiêu tiền một
cân, thầy Trịnh nói:
- Hai hào một xu tám một cân. – Nói xong,
thầy đứng giạng hai chân làm tư thế nhổ rau.
Cuộc sống ở nông trường rất khổ, nhưng các thầy giáo,
cô giáo vẫn vui vẻ, cho nên Thu không cảm thấy buồn. Ban ngày làm việc, buổi
tối trước khi ngủ tất cả tập trung một chỗ nói chuyện. Thu phát hiện thầy Giản
biết nhiều chuyện lịch sử, thầy Thịnh và cô giáo Triệu biết nhiều chuyện dân
gian, Tân hay kể chuyện Shelock Holmes phá án.
Đã chuẩn bị tương đối, nông trường đón lớp học sinh
đầu tiên đến. Việc đầu tiên của học sinh sau khi đến là sửa lại con đường sau
đồi, khi đó máy kéo nhỏ mới đến được ngôi nhà hình chữ L. Vậy là Kiến Tân và
cái máy kéo nhỏ của anh ta trở thành đại cảnh quan của nông trường.
Kiến Tân thích mặc cái áo quân phục cũ, hình như mỗi
tối cậu ta không quên nhét nó vào vại dưa nên cái áo nhăn nhúm như dưa muối.
Cái mũ quân phục lưỡi trai cũng mềm oặt, giống như bại tướng tân binh Quốc Dân
đảng, nhưng lúc cậu ta lái máy kéo nhỏ trông thật hung dũng, hành động nhanh
chóng, lên xuống thoăn thoắt, tư thế dũng mãnh, ngày nào cũng xông vào nhà bếpu
thôi.
Học sinh nghe thấy tiếng máy nổ xình xịch của chiếc
máy kéo nhỏ giống như bà con ở quê nghe tiếng tàu hỏa, đều chạy ùa ra khỏi cửa,
xem hoạt động duy nhất kết nối nông trường với thế giới bên ngoài.
Trên mặt Kiến Tân vẫn dính đầy dầu máy, tưởng như đấy
là tiêu chí đạo đức và kỹ thuật của cậu ta. Có lúc Thu bảo với Tân, mặt cậu
dính dầu máy, cậu ta đưa tay áo kên lau, càng lau càng nhiều hơn. Thu cười gập
cả người, cậu ta chìa mặt nhờ Thu lau giúp, khiến Thu hoảng hống bỏ chạy, nhưng
cậu ta thì “cô không giúp cô phải chịu trách nhiệm” rất thản nhiên tự đắc làm
việc của mình.
Thu và cô giáo Triệu phụ trách gánh nước rửa rau, thổi
cơm, thầy Giản và thầy Trịnh chịu trách nhiệm hướng dẫn học sinh lao động, Kiến
Tân chuyên trách vận chuyển, năm người phân công thật hợp lú. Cứ dăm ngày ba
bữa Thu và cô giáo Triệu lại theo cái máy kéo nhỏ của Tân đi mua gạo và thức
ăn. Cô giáo Triệu đi vài lần rồi chán không muốn đi, bảo không chịu nổi mùi dầu
máy, hơn nữa ngồi trên cái máy kéo xình xịch hơn chục dặm chai cả mông đít.
Thu không sợ mùi dầu máy, từ nhỏ Thu đã thích ngửi mùi
dầu máy, cho nên cô đi với Tân mua thực phẩm. Lần nào cũng vậy, ăn cơm sáng
xong mới đi, tranh thủ chiều về để thổi cơm cho học sinh, sợ cô giáo Triệu một
mình không làm xuể.
Đi với Tân đã tương đối quen, Thu muốn cậu giúp đỡ đưa
đi Tây Thôn Bình một chuyến, Thu muốn đến xem Ba đang làm gì, tại sao không đến
thăm Thu.
Vsau đi mua thực phẩm, Thu hỏi Kiến Tân có thể từ
Nghiêm Gia Hà đi Tây Thôn Bình được không, Thu bảo có một người bạn ở đấy, Thu
đến để trả sách cho bạn.
Tân hỏi:
- Bạn trai hay bạn gái?
Thu hỏi lại:
- Bạn trai thì sao? Bạn gái thì sao?
Lúc nói chuyện mặt Kiến Tân luôn tươi cười, miệng trơn
như gáo múc dầu:
- Bạn gái thì đưa đi, bạn trai thì không.
- Nếu anh thấy không tiện thì thôi. –Thu nói.
Kiến Tân không nói tiện hay không tiện, nhưng mua xong
gạo lúc quay về, Thu thấy cậu ta dừng xe mấy lần, đứng nói chuyện với người qua
đường, Thu không biết cậu ta đang làm gì. Cho máy kéo chạy một lúc, cậu ta nói
với Thu:
- Đến Tây Thôn Bình rồi đi đâu nữa?
Chưa bao giờ Thu từ đây đi Tây Thôn Bình, chưa biết
phải thế nào, suy nghĩ hồi lâu Thu mới định hướng được, chỉ về phía lán của đội
thăm dò:
- Ở phía kia.
Tân đánh chiếc máy kéo nhỏ đến thẳng lán đội thăm dò,
dừng lại, nói:
- Tôi chờ ở đây, nếu chờ quá lâu tôi xông vào cứu cô
đấy nhé.
Thu nói:
- Khỏi cần, tôi ra ngay.
Thu chạy nhanh về phía lán đội thăm dò, cảm thấy trái
tim mình như sắp nhảt ra khỏi lồng ngực. Bình thường Thu không thấy tim mình
đập, nhưng lúc này nghe rất rõ tim đang đập mạnh, hơn nữa trái tim lên rất gần
cổ họng. Lúc này Thu tin những điều sách viết: lúc kích động tim nhảy lên gần
cổ họng; lúc bình tâm, trái tim lại rơi xuống, gọi là “tim rơi xuống bụng”.
Thu cầm quyển sách cho có cớ, chuẩn bị nếu Ba không có
nhà, hoặc thái độ của Ba không nhiệt tình, Thu đến ể trả sách. Thu hít thở thật
sâu mới dám gõ cửa phòng của Ba, nhưng gõ hồi lâu vẫn không có ai mở cửa. Thu
nghĩ, đang là buổi chiều, có thể anh đi làm vắng. Thu rất thất vọng, nhưng vẫn
không chịu, Thu gõ cửa các phòng khác, xem có ai để hỏi thăm. Đi một vòng cũng
không gặp ai, có thể tất cả đều đi làm.
Thu quay về phòng của Ba, tưởng như không còn hi vọng
gõ cửa tiếp, không ngờ cửa mở. Ra mở cửa là một người độ tuổi trung niên Thu đã
gặp lần đến gọi Ba về nhà bà Trương ăn cơm. Thu ngó nhìn trong phòng, thấy bóng
một người con gái đang chải tóc, hình như vừa từ giường ngồi dậy.
Người đàn ông trung niên nhận ra Thu, nói:
- Ôi, “canh đỗ xanh” đấy à?
Cô gái kia ra, hỏi:
- “Canh đỗ xanh” của anh à?
Anh kia cười, nói:
- Anh đâu có “canh đỗ xanh”? Của cậu Tân đấy. Nhớ ra
rồi, cái từ “canh đậu xanh” là của cô