
ng được, Đồ Đểu cũng chẳng sao, giờ đây đã trở
thành hình bóng, chúng tôi đã không còn tìm được lý do để đưa tay
níu kéo nữa rồi. Trời vừa sáng, tôi đã một mình bắt xe xuống núi, không làm kinh
động tới giấc ngủ của bất kỳ người nào. Về đến nhà, tôi ốm một trận
rất nặng, sốt tới bốn mươi độ, sốt đến nỗi mê sảng, chỉ gọi tên của
một người.
Alawn không hề liên lạc lại với tôi. Không quay lại tìm tôi, cũng
không gọi điện thoại. Thậm chí ngay cả một tin nhắn giải thích hay
từ biệt cũng không có. Thật đúng với phong cách của cậu ấy.
Trong cơn mê sảng lúc ấy, tôi luôn cảm thấy mình đang nằm mơ, mơ
thấy mình đang ở trên núi, trong vòng tay của Alawn. Khi giấc mơ và
hiện thực lẫn lộn với nhau, tôi thậm chí còn nghi ngờ rằng tôi vồn
chưa từng gặp lại cậu ấy, tất cả ở trên núi hôm đó, đều là một giấc
mơ mà tôi luôn một lòng mong mỏi.
Nhưng Alawn đã nói yêu tôi, chỉ yêu một mình tôi, tôi không cần
nghi ngờ; cũng giống như tôi nới tôi yêu cậu ấy, chỉ yêu một mình
cậu ấy, cậu ấy cũng tin chắc như vậy.
Nhưng những lời yêu đó chỉ có thể đẩy lùi về quá khứ. Còn cả những
lời nói thời niên thiếu, lời hứa trăm năm đầu bạc, đều không phải
là giả. Ít nhất thì lúc ấy, khuôn mặt non trẻ của chúng tôi cũng
đều mang nét thành khẩn tuyệt đối.
An Lương nghe nói tôi bị ốm, bèn xin nghỉ phép đến chăm sóc tôi hai
ngày. Bên giường bệnh, cậu ấy chu đáo bón thuốc cho tôi, gọt táo
cho tôi ăn. Sáng nào cũng mang đến cho tôi món canh gà cá giếc nấu
bơ, bón từng ngụm từng ngụm cho tôi. Mỗi lần tôi phải tiêm, cậu ấy
đều nắm lấy cánh tay tôi, nói tôi đừng sợ, bản thân cậu ấy dường
như còn căng thẳng hơn tôi nhiều. Tôi nhìn điệu bộ chăm chú của cậu
ấy khi nghe bác sĩ dặn dò nên ăn gì và không nên ăn gì, trái tim
như bị nghẹn lại.
Buổi chiều ngày thứ ba, cơn sốt của tôi đã dứt hẳn. Tôi ngồi trên
giường bệnh nói chuyện với An Lương như một người bạn cũ. Ánh nắng
mặt trời chiếu vào nhuộm vàng tất cả đồ vật màu trắng trong phòng.
An Lương kéo rèm cửa ra, làn gió ấm áp thổi vào, thổi bay mái tóc
trước trán của cậu ấy, tôi tự nhiên đưa tay chỉnh lại cho cậu ấy,
mặc dù cậu ấy tỏ ra rất tự nhiên, nhưng tôi vẫn cảm nhận được cậu
ấy đang né tránh tôi.
Tôi và cậu ấy, không ai nhắc tới chuyện cầu hôn hôm đó, giống như
chưa hề có chuyện đó xảy ra. Tôi vô cùng cảm kích và áy náy. Ánh
mắt tôi luôn né tránh nhìn vào túi áo của cậu ấy, tôi sợ rằng trong
đó vẫn còn chứa chiếc nhẫn ấy. Bởi vì tôi đã ngược đãi trái tim
cương quyết và chân thành của cậu ấy mất rồi.
Tôi là một người không thể yên lặng mãi được, liền hỏi: "Trong túi
anh đựng gì thế? Phồng hết cả lên rồi".
"Nhẫn." An Lương trả lời một cách thành thật.
"Sao anh cứ phải đem theo bên mình thế, không sợ bị rơi mất à!" Tôi
ngạc nhiên nói.
"Anh nghĩ, cứ mang theo bên mình, bất cứ lúc nào em nghĩ kỹ rồi,
đồng ý rồi, anh sẽ có thể lấy ra ngay lập tức." An Lương nói một
cách nghiêm túc, đôi mắt long lanh như pha lê ấy tràn ngập sự chân
thành.
Thường nói rằng, con người, không thể trông mặt mà bắt hình dong.
Quả đúng là như vậy. Tôi nhìn điệu bộ ăn mặc chải chuốt theo trào
lưu Hàn Quốc của cậu ấy, một vẻ bề ngoài phong lưu tuấn tú như thế,
không thể nào tưởng tượng được rằng trên phương diện tình cảm, cậu
ấy lại truyền thống và si tình đến vậy. Nhớ lại ngày hôm đó, An
Lương cầu hôn tôi trước mặt mọi người... tôi thật có lỗi với cậu
ấy.
Lại còn việc cậu ấy hát bài đó bằng một chất giọng dịu dàng mượt mà
nữa, cậu ấy đã hát rằng, "Đã bao nhiêu người từng ái mộ sắc đẹp của
em hồi trẻ, nhưng đâu biết ai tình nguyện chịu đựng sự thay đổi vô
tình của thời gian."
Khóe mắt cay cay, có giọt nước mắt trào ra.
An Lương vội vàng đến trước mặt hỏi: "Đau ở đâu à?".
Tôi nói anh là đồ ngốc, không kìm chế được bèn bật cười, nước mắt
vẫn rơi xuống.
Tôi hỏi cậu ấy: "Anh có biết, ngày hôm đó, em và Alawn chạy ra
ngoài làm những gì không?".
Cậu ấy lắc đầu.
Tôi lại hỏi: "Có muốn biết không?".
Cậu ấy sững người lại, dường như đang suy nghĩ, sau đó tiếp tục lắc
đầu, nói: "Đó là bí mật của em, anh không nhất thiết phải
biết."
Tôi ghét cái điệu bộ trưởng thành đến độ không thèm ghen tức hay
chấp nhặt một đứa trẻ con như tôi, liền cố ý nói, "Nếu... em nói
rằng, em không muốn ở bên anh..." Nói những lời ấy, tôi đưa mắt
liếc trộm về phía An Lương, cặp đồng tử điềm tĩnh của cậu ấy có một
chút luống cuống không dễ gì nhận biết được, nhưng tôi thực sự
không muốn làm cậu ấy lỡ dở, vẫn tiếp tục nhẫn tâm nói, "Anh có hận
em không?".
An Lương dường như đã cười ngay lập tức. Nụ cười đó giống như một
kẻ tử tù bị giam trong ngục đã rất lâu rồi, thi thoảng hồi tưởng
lại thời gian tự do yêu đương với người tình của mình năm xưa, vừa
ngọt ngào ấm áp, lại chua xót bất lực. Cậu ấy nói: "Anh mãi mãi
không thể hận em được".
Tôi bật người dậy, hét lên đầy kích động: "Anh có biết không? Em
ghét cái điệu bộ vĩ đại đó của anh! Vì nó nên em không tin anh thật
lòng yêu em! Tình yêu là ích kỷ, là độc tài! Chứ không phải điệu bộ
vờ vịt như A Di Đà Phật đại từ đại bi như vậy! Anh