
mà thôi. Đến My Đàm, lúc đầu tôi
không định ở đó lâu, vì nơi đây chỉ là một địa phương nghèo nàn đơn bạc.
Nhưng ở đây tôi đã gặp Giang Tú Lâm. Tôi còn nhớ, hôm ấy là
một buổi chiều mặt trời vẫn còn nằm trên đỉnh núi, nhưng ráng chiều đã
phủ vây cả bầu trời với từng đàn hạc bay không mỏi cánh.
Tôi
gặp Tú Lâm bên một tàng cây lớn. Tay cầm cọ, tay cầm giá vẽ, đường nét
của nàng không xuất sắc lắm, người cũng không đẹp lắm, những dáng điệu
của nàng thật thoáng đạt, thật dễ mến. Lúc ấy tôi còn rất hào hoa phong
nhã nên tôi đã tìm cơ hội để làm quen. Vẫn tưởng rằng đó chỉ là một
trong muôn ngàn chuyện tình vớ vẫn khác sẽ qua đi, nhưng không ngờ tôi
không thể xa nàng được.
Tú Lâm là con nhà nghèo, trình độ học
vấn chỉ đến tú tài, nhưng thật thà lương thiện. Lúc nào tôi cũng cảm
thấy nàng là một kho tàng phì nhiêu vô giá, đầy ưu điểm. Đến Quế Lâm, sự giàu sang của gia đình tôi đã làm cho nàng lo sợ, tôi tớ trong nhà quá
nhiều khiến nàng luống cuống, nhất là sự cố ý coi thường nàng của cha mẹ tôi làm cho nàng bao đêm phải tủi thân khóc thầm. Nhưng nàng quả là con người đầy tự tin. Chỉ trong vòng một năm, sự nhẫn nại đã khắc phục bao
nhiêu khó khăn và thu phục cảm tình của kẻ ăn người ở trong nhà.
Tôi chắc chắn là khó có ai tìm được người vợ hoàn toàn như Tú Lâm. Ai
ai cũng phải yêu thương nàng. Tú Lâm không bao giờ ra vẻ ta đây là chủ
nhân, nàng hòa đồng với tất cả mọi người. Vui vẻ, không ưu tư, thích ca
hát hay vui cười. Lúc nào tiếng cười của nàng cũng vang vang khắp nhà ra đến khu vườn hoa rộng lớn.
Chẳng bao lâu cuộc sống tù túng
trong nhà làm nàng mệt mỏi. Là người năng hoạt động nên Tú Lâm đã trồng
hoa cỏ, nuôi cá vàng... nhưng bao nhiêu đó vẫn chưa làm nàng thỏa mãn.
Nàng là người rất nhân từ, thế nên không rõ từ lúc nào nàng đã sinh ra
tật nuôi thú. Mỗi lần ra phố trở về là nàng mang theo nào là chó xà mâu, mèo ghẻ lở dơ dáy, loại nào nàng cũng không từ, miễn là chúng tàn tật
đáng thương. Tú Lâm đã không nề hà khó nhọc, tự tay săn sóc thuốc men,
tắm rửa, cho ăn... chỉ mong đến một ngày nào đó được nhìn thấy chúng mập mạp khỏe mạnh hơn.
Hành động này của nàng, lúc đầu tôi cũng
thấy thích, nhìn nàng sung sướng tôi cũng vui lấy. Nhưng rồi dần dần,
cái cảnh chim chó chạy bay đầy nhà như trong sở nuôi thú tàn tật làm tôi khó chịu.
Mặc dù tôi đã khuyên bảo nàng nhiều lần nhưng Tú Lâm vẫn không nghe, nàng còn cãi:
- Anh có thể đưa mắt nhìn một con vật bị bỏ rơi chăng? Anh không yêu
cuộc sống của loài vật à? Không có gì sung sướng cho bằng được nhìn thấy những con vật tàn tật kia trở nên mạnh khỏe. Em thích nuôi chúng, anh
nỡ nào bóp chết nguồn vui của em sao?
Thôi được! Tôi chỉ còn
biết để cho nàng tiếp tục công việc đó. Kết quả, Tú Lâm càng lúc càng
thay đổi hơn. một hôm, nàng về quê thăm người bà con xa, khi trở về nàng đã mang theo một đứa con gái khùng khùng điên điên không biết nói - đó là Gia Gia. Nó ngớ ngẩn, ốm yếu, ghẻ lở.
Tôi đã trách nàng sao làm mà không suy nghĩ gì cả, mang chi những bực bội về nhà, thì nàng lại bảo:
- Chúng ta đâu sợ có thêm một miệng cơm. Ở nhà nó không ai ưa nó cả,
nó sống khốn khổ không bằng con chó của chúng ta nữa, anh không thấy nó
đáng thương sao? Anh đừng lo, và nó cũng không đến nỗi nào đâu, để em
dạy nó trồng hoa, nuôi súc vật chắc chắn nó sẽ làm được. Anh đừng lo, để nó cho em.
Thế là Gia Gia được ở lại. Suốt cả nửa năm trời
nàng nhọc công dạy dỗ nó trồng hoa, nuôi súc vật. Tuy cực khổ nhưng Tú
Lâm vui sướng lắm. Thuở ấy bản nhạc Tú Lâm thích hát nhất là bản "Hoa
Phi Hoa" nàng đã mất cả năm trời dạy dỗ Gia Gia mới hát được. Đến nay
bài hát này là bản nhạc mà không bao giờ Gia Gia quên được.
Khi Gia Gia biết hát xong, Tú Lâm mừng rỡ như kẻ sung sướng nhất đời, nàng chạy đến bên tôi khoe khoang:
- Nó không phải là con khùng, anh có thấy không?
Nhưng rồi khùng thì bao giờ cũng khùng, Gia Gia hát xong bản nhạc đó
thì không hát được một bản nào khác nữa. Suốt ngày chỉ ca độc nhất một
bản này.
Tuy rằng vậy, nhưng về nghệ thuật trồng hoa và nuôi
thú vật thì nó rành lắm, có thể xem như là chiếc bóng của Tú Lâm. Việc
nàng yêu thương nó có lẽ nó cũng ý thức được, nên mỗi khi nhìn Tú Lâm
tưới hoa, nó cũng phụ một tay, ngay cả ý thích của nàng, Gia Gia hình
như cũng biết. Thí dụ Tú Lâm thích loài hoa vàng nhỏ, một loài hoa vô
danh mọc khắp cánh đồng, thì Gia Gia tối ngày leo mãi trên núi tìm kiếm
về cho Tú Lâm, tôi nghĩ rằng đây cũng là nguyên do tại sao Gia Gia thích Ức My, vì Ức My có nét giống mẹ, còn nó thì vẫn không thể phân biệt
được Tú Lâm với Ức My.
Năm Dân Quốc thứ 29 Hạo Hạo ra đời. Hạo Hạo đã đem lại cho nàng nỗi vui mững khôn xiết, khỏi phải nói thì các
người cũng biết tôi vui ra sao. Nhất là tôi nghĩ rằng khi đã bận bịu con nhỏ, Tú Lâm sẽ không còn mang ba cái loài vật tàn tật kia về nữa, vì
tình thương con sẽ chiếm trọn lòng nàng.
Nhưng tôi đã lầm, khi Hạo Hạo vừa được đầy tháng, thì có người đến muốn nàng đưa con về thăm
quê ngoại, thế là nàng bồng con đi. Ở quê nhà khoảng hai tháng, nàn