
ai
ai cũng đương bận công việc của mình.
Tiểu Thảo mau lẹ rút lọ thuốc độc ra, lần đầu làm việc bất nghĩa,
không khỏi tim loạn nhịp, tay run run nhỏ một giọt thuốc vào một trong
hai chiếc bát xong lập tức giấu lọ đi. Ngẩng đầu lên nhìn một vòng xung
quanh lần nữa, thấy không ai chú ý đến động tác vừa rồi của mình, Tiểu
Thảo không khỏi thở phào nhẹ nhõm, cầm giẻ lau bàn như chẳng có chuyện
gì xảy ra.
Không bao lâu thì tổ yến hầm xong, múc vào trong bát, Tiểu Thảo bưng
khay bước ra khỏi nhà bếp. Lúc này trước mắt Tiểu Thảo như hiện lên cảnh Tâm Di đau khổ vì trúng độc, khóe miệng không kìm được lộ ra nụ cười
đắc thắng.
Giả sử sự việc bại lộ, cô ta cũng chẳng sợ vì dù bản thân có bị nghi
ngờ, nhất định cũng sẽ không việc gì. Bát a ca và cửu a ca đã hứa đỡ
lưng cho cô ả, mà lẽ nào Uyển cách cách lại khoanh tay làm ngơ hay sao?
Tiểu Thảo vừa đi vừa mải suy tính không để ý đã bước lên bậc cấp,
chính lúc đó, chó và mèo Tâm Di nuôi rượt đuổi nhau, từ trên mái nhà lần lượt nhảy xuống. Chúa mới biết vì sao lại trùng hợp như vậy, vừa hay
nhảy trúng khay đặt bát, chỉ nghe một tiếng "choang", bát đĩa rơi xuống
đất vỡ tan tành.
"Con mèo chết tiết!" Tiểu Thảo cáu tiết xỉ vả.
Nghe động, Tâm Di và Uyển Nhi từ trong phòng bước ra xem.
"Xảy ra chuyện gì thế?" Uyển Nhi hỏi.
"Không sao, không sao, ai mà chả có lúc lỡ tay!" Tâm Di vội giải vây
cho Tiểu Thảo rồi lại nhìn xuống đất, gọi: "Tiểu Trúc Tử, kêu người lấy
nước giội sạch chỗ này, vừa ngọt vừa ngậy kiểu này chỉ tổ mời kiến đến
viếng."
"Ai, xong ngay!" Tiểu Trúc Tử lớn tiếng đáp, chỉ huy đám tiểu thái giám quét dọn mặt đất.
Mèo nhóc thấy mình gây họa bèn nép ở góc tường kêu meo meo, Tâm Di
chạy đến xách cổ mèo ta, dọa: "Ha, tóm được rồi nhé, ta phải đét cho mi
vài phát xem mi còn dám gây rối nữa không!"
"Tâm Di, tỷ chấp với chó mèo làm gì." Uyển Nhi bật cười.
"Muội đừng tưởng chó mèo nghe không hiểu, chúng khôn lắm. Như Vương
Vương đây, tỷ dạy nó làm tính, nó cũng biết đấy!" Tâm Di ôm mèo nhóc vào lòng đáp, nói thế chứ nào nỡ đánh nó chứ!
Uyển Nhi không tin: "Thật sao?"
Tâm Di lập tức bắt được sóng: "Tỷ làm thử muội xem nhé! Tiểu Trúc Tử, tóm Vương Vương qua đây." Hai cô gái lập tức quên phắt vụ đổ vỡ hồi
nãy.
Tiểu Trúc Tử ôm chó theo vào trong phòng, ngoài đám tiểu thái giám
đương quét dọn ra, trong vườn chỉ còn mình Tiểu Thảo cắn chặt môi, tức
tối đứng chôn chân ở đó.
Cơ hội tốt thế lại để một con mèo phá hỏng, xem ra mọi việc đều đã được ông trời an bài cả rồi.
Quảng Hòa lâu là vườn kịch có tiếng thành Bắc Kinh, nằm bên ngoài cổng vào khu chợ búa sầm uất.
Vườn kịch ngày xưa và viện kịch ngày nay có sự khác biệt khá lớn.
Vườn kịch cũ thường gần đường, trước cửa dựng một tấm biển gỗ, trên biển đề tên vườn, phần đỉnh có một mái nhỏ hình xương sống để che mưa che
nắng.
Bục diễn trong vườn kịch hình vuông, kết cấu gạch và gỗ, bốn góc bục đều có cột gỗ, hai cột phía trước treo một đôi câu đối:
"Nhật nguyệt đăng, giang hải du, phong lôi cổ bản, thiên địa gian nhất phiên hí trường
Nghiêu Thuấn đán, văn võ mạt, mãng thao sửu tịnh, cổ kim lai hứa đa giác sắc (2)"
Đôi câu đối này là do Khang Hy ban tặng cho Quảng Hòa lâu.
Chính diện bục diễn có một hàng rào điêu khắc rất tinh xảo. Đỉnh rào
được điểm xuyết bằng hoa sen hoặc sư tử nhỏ khắc từ gỗ, phần trần bục
diễn có lan can thùy hoa lắp chúc xuống, đối xứng với hàng rào bên dưới.
Chỗ ngồi của khán giả đặt bàn dài, ghế băng dài. Ba mặt bục diễn đều
có chỗ ngồi và khán lầu. Chỗ ngồi chính diện dưới lầu bố trí vuông góc
với bục diễn, khán giả ngồi đối diện nhau thưởng trà nghe kịch, muốn xem thì phải nghiêng người quay đầu. Chỗ ngồi hai bên bục bố trí chênh
chếch, ghép với bục thành góc nhọn, khán giả cũng ngồi đối diện nhau,
muốn xem phải nghiêng người quay đầu.
Kỳ thực vườn kịch thời bấy giờ gọi là trà viên hoặc trà lâu, thưởng
trà là chính xem kịch chỉ là phụ nên ngày trước thường hay nói "nghe
kịch", hiếm khi nói "xem kịch".
Chỗ ngồi trên lầu ba mặt đều vuông góc với bục diễn, vì địa điểm khá
chật nên từng khu vực đều có tên riêng. Khu vực chính diện dưới lầu gọi
là "trì tọa", hai bên cánh gọi là "lưỡng sương", đằng sau lưỡng sương
sát với tường có kê ghế gỗ cao, gọi là "đại tường". Trên lầu gọi là "lâu tọa", đằng trước là "bao sương", hai cánh sau bục diễn gọi là "hậu
lâu". Ở hậu lâu xem kịch chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng nên hậu lâu
không thu phí, thường là nơi bằng hữu thân thuộc của nhân viên nội bộ
xem kịch.
Vườn kịch thời xưa còn có một địa điểm đặc biệt, đó chính là "đàn áp
tịch" được bố trí ở giữa, đằng sau chỗ ngồi dành cho khán giả dưới lầu,
đối diện với bục diễn. Tại đàn áp tịch đặt một chiếc bàn chữ nhật, trên
bàn dựng một tấm biển đề ba chữ "đàn áp tịch", ngoài ra còn có một giá
gỗ nhỏ cắm lệnh tiễn. Vị trí này được thiết kế nhằm duy trì trị an trong vườn, khi kịch bắt đầu diễn binh sĩ vũ trang từ đầu đến chân vào chỗ
ngồi, phía vườn kịch bưng trà nước điểm tâm lên mời, lễ lạt tết nhất còn đưa hồng bao những mong phía quan lại chính quyền quan tâm