
ư sinh Vương Xí,đêm hôm đi qua Từ Châu, trời tối đen như mực, anh ta bị lạc đường. Nhìnthấy phía xa xa có đốm lửa bập bùng, anh ta liền tiến về hướng có đốmlửa để tìm chỗ nghỉ đêm. Quả nhiên tìm thấy một làng nhỏ. Vương Xí xinngủ nhờ trong nhà một ông lão, hỏi rằng: “Đây là nơi nào?” Ông lão trảlời rằng: “Thôn Tùng. Thôn này do một nhà giàu lập nên.” Ngày hôm sau,Vương Xí cáo từ, đi được một quãng thì gặp một người nông dân, lại hỏi:“Chỗ này đi từ bắc sang tây khoảng năm lý, có một làng nhỏ có chợ búa,nhà cửa, đó là chỗ nào?” Người nông dân trả lời: “Chỗ đó là bãi tha ma,không có nhà cửa, chợ búa gì cả.” Vương Xí giật mình nhớ lại việc đêmqua mình ngủ trong nghĩa địa, nằm giữa đám mộ mà không hề biết mình đang ở đâu. Có thể thấy, khi màn đêm buông xuống, những bãi tha ma không chỉ là nơi trú ngụ của ma quỷ, mà còn có thể biến thành thị trấn, làng mạctrong mắt người dương. Những câu chuyện như thế tồn tại không ít và được ghi chép lại trong các cuốn sách sử, nhưng vẫn không làm cho người tacảm thấy thỏa mãn, có lẽ bởi chúng cũng chỉ là những sự việc ngẫu nhiên, không thường xuyên xảy ra.
Cũng chính quan niệm này đã gợi ý cho tầng lớp thống trị trong xã hội phong kiến dùng những cách vô cùng tànnhẫn và vô nhân đạo để đối với những ai chống đối chúng. Ngoài việc dồnkẻ thù vào chỗ chết, chúng còn phải đào hết mộ phần tổ tiên của họ lên,mang xương cốt vứt đi hết. Nếu vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn, chúng còn đào một cái hố sau ngay trên chính mộ phần đó, rồi đổ đầy nước thải, némthêm xác chó mèo chết vào đó, như vậy sẽ đuổi hồn ma ra khỏi mộ phần, từ đó không còn chỗ dung thân nữa. Qua đây có thể thấy, việc chu di cửutộc đối với những kẻ phản loạn vẫn không thỏa mãn được lòng dạ độc ác,thói tàn nhẫn của các vị hoàng đế ngày xưa, mà họ còn thực thi triệt đểnhững biện pháp trừng phạt tàn nhẫn đến cực điểm, không chỉ khiến cho kẻ thù đoạn tử tuyệt tôn mà ngay cả tổ tiên đã mất của họ cũng không chịubuông tha.
Nhân đây cũng xin đưa ra một quan niệm khác cũngliên quan đến nơi trú ngụ của các linh hồn, nơi đó được mang tên “địaphủ”. Đây là một nơi đô hội sầm uất, và trung tâm là đám nha môn củaDiêm Vương. Nơi đó không có sự xuất hiện của những ngôi làng, những mảnh vườn, hay những cánh đồng lúa bao la, bước vào địa phủ là chúng ta bước vào một cuộc sống mới, khiến cho người ta cảm thấy dường như đó mớichính là cuộc sống lý tưởng của mình. Tác gia nổi tiếng thời Tống, LưuNghĩa Khánh, trong cuốn U Minh ký có ghi lại một câu chuyện mang màu sắc Phật giáo rất rõ nét: “Ở huyện Ba Bắc có một thầy pháp sư tên là Thư Lễ bị chết, được thần Thổ Địa áp giải đến Quân sở phủ Thái Sơn. Trên đường đi, hai bên đường đều là nhà cửa, đếm sơ sơ cũng phải hàng nghìn ngôinhà, “giai huyền trúc liêm, màn trời chiếu đất, nam nữ ở hai khu phânbiệt. Người ca hát, kẻ ngâm thơ, vui vẻ vô cùng”. Những người sau khichết lại được sống một cuộc sống vui vẻ, ấy đều là các tín đồ Phật giáo, nhưng thầy pháp sư kia lại không nằm trong số đó nên đành chịu sự ápgiải của đám đầu trâu mặt ngựa đi hành hình. Niềm vui bất tận của cáclinh hồn đó chỉ đơn giản là ăn cơm rồi tụng kinh, tụng kinh rồi lại ăncơm, còn về cuộc sống của họ thì đương nhiên không tồn tại khái niệm“gia đình”, vì nam nữ không được phép chung đụng. Đến đây lại khiếnngười ta nhớ đến chế độ Thiên triều của Hồng Tú Toàn với hai cung phânbiệt, Nam Cung và Nữ Cung, hóa ra đây cũng không hẳn là những dị giáohoang đường, mà trong quan niệm dân gian Trung Quốc từ lâu đã mơ ước vềmột cuộc sống như thế.
Nhưng nếu tưởng rằng sự xuất hiện của các khu ở tập thể nơi âm phủ đó là do chịu sự chi phối của chế độ tăng lieu từ các tự viện thì cũng không hoàn toàn đúng. Tác gia đời Đường, ĐớiPhu trong Quảng dị ký có ghi chép về “Kiềm nhĩ Hàm Quang”, kể rằng vợcủa Ngôn Hàm Quang chết khi còn rất trẻ, một lần lên chùa Trúc Sơn báiPhật, chàng tình cờ gặp được âm hồn của vợ mình là Lục Thị. Hai ngườigặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng liền hỏi thăm tình hình của vợ, LụcThị chỉ tay bảo chồng nhìn sang hướng bắc, thấy có một tòa thành lớn, đó chính là nơi ở của Lục Thị sau khi chết. Sau khi vào thành, “phòng ốctráng lệ không khác gì những tòa nhà lộng lẫy chốn nhân gian. Bên cạnhcó một ngôi viện, trong viện đi về phía tây có mười gian phòng, Lục Thịsống ở căn phòng thứ ba”. Hai người chia tay nhau, ngày hôm sau HàmQuang lại đến thăm vợ. Không ngờ ngồi còn chưa ấm chỗ thì một vị sử quan mặc áo gấm dẫn theo chục người hầu xông vào trong viện. Lục Thị vội vãbảo Hàm Quang chui xuống gầm giường để trốn. Nàng lắng nghe, thấy bênngoài có tiếng thét lớn: “Lục Tứ Nương!” Lục Thị vội vã chạy ra. Lúc này trong viện đang có tất cả hai mươi tám cô gái, viên quan liền sai thuộc hạ giật hết búi tóc của họ ra, trói hai người một lại với nhau, ném vào nồi nước đang sôi sùng sục, cứ thế đun cho đến khi lửa tắt, đám quansai mới rời đi. Các cô gái sau khi chịu xong hình phạt, liền lảo đảo aivề phòng người nấy. Có lẽ các bạn có thể nhận ra, đây cũng được coi làmột khu nhà tập thể, nhưng nói một cách chính xác hơn, chỗ này khôngkhác gì một