
người tỏa ra sưởi ấm lẫn nhau. Anh nói: “Thùy này. Đêm nào mụi cũng trốn lên đây với huynh, nhỡ ba mẹ mà biết thì sao?”
Cô gái cười bảo: “Tía má ngủ sớm lắm, mà đêm hôm cũng đâu vào phòng muội làm gì mà biết được.” Nói tới đó bỗng như nàng nghĩ ra điều gì, liền khẽ cựa mình ra khỏi Võ Đức, giọng có chút hờn dỗi: “Ý huynh là bảo muội đừng có lên đây nữa đúng không. Muội biết mà, huynh sợ sư phụ biết chuyện sẽ trách phạt chứ gì.” Nói xong nàng hứ lên một tiếng quay phắt đi. Võ Đức liền nở nụ cười, lại quàng tay qua kéo nàng vào người mình rồi nói hết sức ngọt ngào:”Ta sao mà có ý đó được, ta lúc nào cũng muốn muội ở bên cạnh hết, chẳng phải chính ta bảo muội lên đây hay sao.”
Cũng trong đêm đó, cũng dưới ánh trăng tròn vằng vặc đó, tại đỉnh Khai Tâm Sơn, bên trong Vọng Nguyệt đình, có một người đang ngồi xếp bằng vận khí luyện công, nhân ảnh chìm trong ánh trăng, gió núi xé từng cơn mãnh liệt thổi qua đình. Thân người bên trên run lên từng chập, không biết có phải vì gió lạnh hay không, hay là vì sắp hoàn thành bước đầu tiên trong chương chữ Khôn – Âm Dương Chưởng Pháp.
Vọng Nguyệt đình được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh Khai Tâm Sơn. Tảng đá này nằm ở vị trí rất đặc biệt quanh năm có gió mạnh thổi qua. Cái đình rộng khoảng bốn mét vuông, bao quanh bởi bốn hàng lan can chạm rồng, nền lát đá hoa cương bóng loáng, không hề có mái che, thoạt trông giống một cái sân hơn. Giữa đình có một cái bệ cao năm mét, không có cầu thang gì dẫn lên cả. Đây chính là nơi luyện công của các đời chưởng môn Huỳnh Gia. Cái bệ cao giữa đình gọi là Thu Phong đài. Người luyện cần phải tự mình dùng khinh công mà nhảy lên trên đó. Đấy cũng là một cách để kiểm tra khả năng trước.
Điểm đặc biệt của cái đài ấy là được làm từ một tảng đá to nguyên khối. Tương truyền, ngày trước tổ sư Huỳnh Tường Đức thông tuệ tuyệt đỉnh đã cải biên và hoàn thiện lại bộ Âm Dương Chưởng Pháp của dòng họ. Trong quá trình cải biên ông thấy rằng việc luyện công cần phải có một môi trường thật hoàn hảo thì mới có thể luyện lên tới cảnh giới cao nhất, nên đã cất công tham khảo rất nhiều sách dư địa chí cốt tìm được nơi luyện tập thích hợp. Trong sách viết, gió trong thiên hạ đều có hướng thổi của nó, gọi là mạch gió. Mạch gió lại có sơn mạch thổi từ trên núi cao xuống, hải mạch thổi từ ngoài biển vào, địa mạch thổi trên những vùng đồng bằng. Các mạch gió này thổi khắp mặt đất tất sẽ phải giao nhau, những nơi giao nhau đó gọi là Phong Huyệt. Phong Huyệt mang thế của núi, khí của biển và hơi của đất, nơi đó có gió thổi ngày đêm không dứt, tố chất như vậy thì đúng là địa điểm lí tưởng để luyện bộ Âm Dương Chưởng Pháp mà Huỳnh chưởng môn đang tìm.
Tuy nhiên, Phong mạch trong thiên hạ rất nhiều, nhưng để tìm ra được thì cực kì khó. Vừa hay nằm cách Huỳnh Gia về phía nam chừng 3km, có một quần thể đồi núi nằm mọc lên giữa đồng ruộng. Trong đó có một ngọn núi tương đối cao, hoang vu, dân tình rất ít khi lên đó. Trên đỉnh núi có một tảng đá lớn, từ lâu những người đi núi đều biết rằng quanh tảng đá đó luôn có gió thổi ngày đêm dù rằng không biết tại sao. Đấy chính là một Phong Huyệt đã có từ lâu mà cũng là thứ mà Huỳnh chưởng môn đang tìm kiếm. Huỳnh chưởng môn khi đó là tướng trấn thủ thành Gia Định, uy danh lẫy lừng, cho nên việc quy hoạch ngọn núi hoang đó không có gì là khó, từ đó nó trở thành đất của Huỳnh Gia.
Địa điểm như vậy là đã rất lý tưởng. Ông lại thấy rằng người luyện công cần phải có môi trường âm hàn thì mới thuận lợi lưu dẫn khí huyết trong người. Nhất là khi luyện tới những chương thuần dương như chữ Chấn, chữ Càn thì nhiệt khí trong người sẽ dâng lên rất cao, nếu không có hàn khí bao quanh tất sẽ chịu không nổi. Thế nhưng vùng đất Long An thuộc miền nhiệt đới, quanh năm mưa thuận gió hòa, khí lạnh kiếm đâu ra. Huỳnh chưởng môn vì điều này mà trong lòng rất băn khoăn.
Huỳnh Gia ngày đó uy thế cực lớn. Huỳnh tổ sư lại là người hào sảng, thích kết giao bằng hữu, thế nên trong phủ lúc nào cũng có khách xa lui tới, toàn những dị nhân đi nhiều biết rộng. Lúc đó có một ông thầy địa lý người Tàu ghé qua, đối ẩm với nhau qua mấy tuần trà thì Huỳnh chưởng môn thuận miệng kể về mối băn khoăn trong lòng. Lão thầy địa lý nghe xong thì trầm ngâm một hồi, bèn kể rằng trong sách địa chí toàn thư gia tryền nhà lão viết rằng vùng đất phía nam nhiều đồng bằng phì nhiêu tươi tốt (người Trung Hoa gọi Việt Nam là vùng đất phía nam) nhưng núi non hiểm trở cũng nhiều, trong đó cao nhất có ngọn Phanxipang trên dãy Hoàng Liên Sơn. Trên đỉnh núi có một khối đá lớn gọi là Thạch Huyệt nằm sâu trong lòng đất, bao nhiêu hàn khí của cả năm dãy núi lớn miền Bắc Việt đều tích tụ cả vào khối đá này khiến nó có tính cực hàn, tay chạm vào lạnh thấu xương. Huỳnh chưởng môn nghe vậy thì cả mừng, biết rằng đó chính là thứ ông đang cần.
Ba ngày sau ông liền đích thân dẫn người ngày đêm cưỡi ngựa ra bắc, ngót một tháng mới tới chân núi. Phanxipang ngày nay đã được quy hoạch gọn gàng, đường xá rộng rãi, người ta leo núi đông như đi chợ. Nhưng vào hồi đấy thì ngọn núi hoang vu vô cù