
chắn Liên Hoa Bang mà cha nó nói tới và Liên Hoa Bang mà những người kia nói là một, cũng chính là cái tên Lưu Bạch Phong bí bí ẩn ẩn đó.
Nó thầm cảm thấy có một âm mưu gì đó thật kinh khủng đang diễn ra. Cái tên Lưu Bạch Phong kia rốt cuộc là đang trù tính cái gì, tại sao Trấn Quốc Huyệt gì đó của Huỳnh Gia nó lại chưa bao giờ nghe nói tới, rồi đám người kia là ai. Dường như chúng cũng đang toan tính chuyện gì đấy. Bỗng dưng nó cảm thấy xung quanh mình mưu mô trùng trùng, lòng người đa đoan thật khó lường. Không ngờ lão Sáu chủ nhà vui vẻ tốt bụng lại là người có mưu tính sâu xa như vậy. Bao nhiêu luồng suy nghĩ nhất thời làm đầu óc nó choáng váng. Ở tuổi hai mươi, nó chưa hiểu gì nhiều về cuộc đời, bỗng dưng phải đối diện với những mưu đồ lớn như vậy, nó bối rối không biết làm sao.
Nó cứ thế nằm trằn trọc không tài nào ngủ nổi. Cuối cùng nó cũng đi đến quyết định rằng chuyện này liên quan tới an nguy của môn phái, nhất định phải điều tra cho ra. Nó cũng muốn báo cho cha mẹ nó biết, nhưng không biết phải kể như thế nào, nên tạm thời nó sẽ âm thầm tìm hiểu, khi nào có thêm manh mối sẽ thuật lại một lượt. Nghĩ thông được điểm đó, cuối cùng nó cũng chợp mắt được một chút.
Cũng trong đêm đó, cũng dưới ánh trăng tròn vằng vặc đó, tại đỉnh Khai Tâm Sơn, bên trong Vọng Nguyệt đình, có một người đang ngồi xếp bằng vận khí luyện công, nhân ảnh chìm trong ánh trăng, gió núi xé từng cơn mãnh liệt thổi qua đình. Thân người bên trên run lên từng chập, không biết có phải vì gió lạnh hay không, hay là vì sắp hoàn thành bước đầu tiên trong chương chữ Khôn – Âm Dương Chưởng Pháp.
Vọng Nguyệt đình được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh Khai Tâm Sơn. Tảng đá này nằm ở vị trí rất đặc biệt quanh năm có gió mạnh thổi qua. Cái đình rộng khoảng bốn mét vuông, bao quanh bởi bốn hàng lan can chạm rồng, nền lát đá hoa cương bóng loáng, không hề có mái che, thoạt trông giống một cái sân hơn. Giữa đình có một cái bệ cao năm mét, không có cầu thang gì dẫn lên cả. Đây chính là nơi luyện công của các đời chưởng môn Huỳnh Gia. Cái bệ cao giữa đình gọi là Thu Phong đài. Người luyện cần phải tự mình dùng khinh công mà nhảy lên trên đó. Đấy cũng là một cách để kiểm tra khả năng trước.
Điểm đặc biệt của cái đài ấy là được làm từ một tảng đá to nguyên khối. Tương truyền, ngày trước tổ sư Huỳnh Tường Đức thông tuệ tuyệt đỉnh đã cải biên và hoàn thiện lại bộ Âm Dương Chưởng Pháp của dòng họ. Trong quá trình cải biên ông thấy rằng việc luyện công cần phải có một môi trường thật hoàn hảo thì mới có thể luyện lên tới cảnh giới cao nhất, nên đã cất công tham khảo rất nhiều sách dư địa chí cốt tìm được nơi luyện tập thích hợp. Trong sách viết, gió trong thiên hạ đều có hướng thổi của nó, gọi là mạch gió. Mạch gió lại có sơn mạch thổi từ trên núi cao xuống, hải mạch thổi từ ngoài biển vào, địa mạch thổi trên những vùng đồng bằng. Các mạch gió này thổi khắp mặt đất tất sẽ phải giao nhau, những nơi giao nhau đó gọi là Phong Huyệt. Phong Huyệt mang thế của núi, khí của biển và hơi của đất, nơi đó có gió thổi ngày đêm không dứt, tố chất như vậy thì đúng là địa điểm lí tưởng để luyện bộ Âm Dương Chưởng Pháp mà Huỳnh chưởng môn đang tìm.
Tuy nhiên, Phong mạch trong thiên hạ rất nhiều, nhưng để tìm ra được thì cực kì khó. Vừa hay nằm cách Huỳnh Gia về phía nam chừng 3km, có một quần thể đồi núi nằm mọc lên giữa đồng ruộng. Trong đó có một ngọn núi tương đối cao, hoang vu, dân tình rất ít khi lên đó. Trên đỉnh núi có một tảng đá lớn, từ lâu những người đi núi đều biết rằng quanh tảng đá đó luôn có gió thổi ngày đêm dù rằng không biết tại sao. Đấy chính là một Phong Huyệt đã có từ lâu mà cũng là thứ mà Huỳnh chưởng môn đang tìm kiếm. Huỳnh chưởng môn khi đó là tướng trấn thủ thành Gia Định, uy danh lẫy lừng, cho nên việc quy hoạch ngọn núi hoang đó không có gì là khó, từ đó nó trở thành đất của Huỳnh Gia.
Địa điểm như vậy là đã rất lý tưởng. Ông lại thấy rằng người luyện công cần phải có môi trường âm hàn thì mới thuận lợi lưu dẫn khí huyết trong người. Nhất là khi luyện tới những chương thuần dương như chữ Chấn, chữ Càn thì nhiệt khí trong người sẽ dâng lên rất cao, nếu không có hàn khí bao quanh tất sẽ chịu không nổi. Thế nhưng vùng đất Long An thuộc miền nhiệt đới, quanh năm mưa thuận gió hòa, khí lạnh kiếm đâu ra. Huỳnh chưởng môn vì điều này mà trong lòng rất băn khoăn.
Huỳnh Gia ngày đó uy thế cực lớn. Huỳnh tổ sư lại là người hào sảng, thích kết giao bằng hữu, thế nên trong phủ lúc nào cũng có khách xa lui tới, toàn những dị nhân đi nhiều biết rộng. Lúc đó có một ông thầy địa lý người Tàu ghé qua, đối ẩm với nhau qua mấy tuần trà thì Huỳnh chưởng môn thuận miệng kể về mối băn khoăn trong lòng. Lão thầy địa lý nghe xong thì trầm ngâm một hồi, bèn kể rằng trong sách địa chí toàn thư gia tryền nhà lão viết rằng vùng đất phía nam nhiều đồng bằng phì nhiêu tươi tốt (người Trung Hoa gọi Việt Nam là vùng đất phía nam) nhưng núi non hiểm trở cũng nhiều, trong đó cao nhất có ngọn Phanxipang trên dãy Hoàng Liên Sơn. Trên đỉnh núi có một khối đá lớn gọi l