ra Nghiêm Sơn. Nàng hồi hộp hỏi:
– Có tin của tiểu sư đệ không?
Đáp:
– Có thì có rồi đây. Đêm nay chúng ta đi cứu y.
Thiều Hoa mừng quýnh lên:
– Đi, chúng ta đi ngay bây giờ. Tiểu sư đệ bị giam ở đâu?
Nghiêm Sơn nói:
– Song-quái giam nó ở hang Địch-lộng, cách đây không xa .
Ghi chú của thuật giả:
Hang Địch-lộng: Từ Phủ-lý đi về hía Nam 80 km tới Kẽm-trống, băng ngang
cầu là hang Địch-lộng. Hang ở trên cao, phải trèo 80 bậc mới tới. Ngoài
hang là một ngôi chùa. Đường hang đi thông qua quả núi dài 611 m. Trong
hang có nhiều thơ, phú, sấm ký của danh nhân các thời. Hồi 1945, thuật
giả được sư phụ dắt lên chùa lễ Phật. Trị sự trưởng là một sư bà. Thuật
giả được sư bà thương mến, dắt đi viếng chùa, viếng hang, giảng cho
không biết bao nhiêu là những bài thơ, phú, kệ, sấm ký ở trong hang. Lâu ngày qua, thuật giả không còn nhớ được pháp danh của vị sư bà khả kính
ấy nữa. Chả biết trải qua bao đổi thay, những thơ, phú, kệ, sấm ký có
còn không?
Đi một lát tới ven rừng, Nghiêm Sơn chỉ hai con ngựa cột đó:
– Chúng ta phải lên ngựa đi mới được, từ đây lên Địch-lộng hơi xa, nhưng chúng ta dùng ngựa thì cũng không lâu. Tôi đến đó dùng quyền bắt
Song-quái giao tiểu sư đệ đưa về Luy-lâu. Nhưng cần nhất cô nương nên
cải nam trang để cùng đi với tôi thì tiện hơn.
Thiều Hoa hỏi:
– Trường hợp Song-quái không chịu giao tiểu sư đệ cho đại ca thì sao?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương đừng lo. Song-quái được làm Lạc-hầu hai trang Đào, Đinh,
chúng đâu dám trái ý tôi? Chúng còn muốn làm huyện úy nữa, nên tôi nói
gì Vũ Hỹ cũng phải tuân theo. Nếu y trái lệnh, thì tôi chiếu quân pháp
chặt đầu y ngay.
Thiều Hoa hỏi:
– Tôi sợ Song-quái dấu tiểu sư đệ đi một chỗ, rồi chối rằng chúng không bắt nó, thì mới khổ?
Nghiêm Sơn cười:
– Cô nương yên tâm. Trong sào huyệt của Song– quái, tôi cài rất nhiều
người nên nhất cử nhất động của chúng, tôi đều biết. Song-quái giam tiểu sư đệ trong một động nhỏ, cho ăn uống tử tế, y không khổ sở đâu. Dường
như tiểu sư đệ của cô nương biết sử dụng Phục ngưu thần chưởng, do vậy
Song-quái dỗ y khai ra ai đã dạy. Y nhất định không khai. Cô nương, cô
là sư tỷ, chắc cô biết chưởng đó.
Thiều Hoa lắc đầu:
– Tôi chỉ nghe qua mà thôi. Chưởng đó không phải của Cửu-chân chúng tôi, mà của phái Tản-viên. Song– quái là đệ tử của Tản-viên, nên muốn tra
xét xem tại sao tiểu sư đệ lại biết?
Nghiêm Sơn nói:
– Thần chưởng Phục ngưu lợi hại vô cùng, không biết tiểu sư đệ học được
mấy chiêu? Theo tôi biết, chưởng này có 36 chiêu, khi sử dụng biến ra
Âm, Dương, thì 36 thành 72. Tuy có 72 chiêu, nhưng mỗi chiêu bao hàm
quyền, chưởng, chỉ, trảo, dực, thành ra 360 chiêu. Sư phụ của Song-quái
là Nguyễn Thành Công chỉ biết có bảy chiêu. Ông dạy cho Song-quái cả bảy nhưng không dạy biến hoá, nên chúng muốn khảo để tìm đọc cho hết.
Thiều Hoa nói:
– Hôm đó, trong đền thờ Cao Nỗ, tôi thấy tiểu sư đệ sử dụng một chiêu,
có đến bốn biến hoá. Tôi không biết võ công gì, sau thấy Song-quái kêu
là Phục ngưu thần chưởng thì biết vậy thôi.
Nghiêm Sơn nói:
– Một chiêu biến thành hai, rồi hai biến thành năm lần nữa hoá ra mười
chiêu. Dường như hôm đó tiểu sư đệ sử dụng là lần đầu, cho nên không
thạo lắm, tuy cũng đánh trúng Vũ Hỷ, nhưng bị nó đá văng ra xa.
Thiều Hoa ủa một tiếng:
– Thì ra hôm đó đại ca cũng nấp ở ngoài nhìn thấy à?
– Đúng, tôi theo Song-quái để biết rõ hành tung của họ. Cô cảm thông
cho, vì ở địa vị tôi, cần phải biết rõ y trước khi cho làm huyện úy. Tôi thấy một mặt chúng mơ tưởng quan quyền, một mặt chúng tổ chức rất nhiều sào huyệt cơ sở, nên phải theo để biết. Thì ra Song-quái muốn làm bá
chủ võ lâm. Y cũng như sư phụ y và người của phái Tản-viên đua nhau tìm
bộ Văn Lang võ kinh, nhưng cho đến nay tất cả chưa ai đạt được. Nếu một
trong những người họ đạt được, họ sẽ nắm hết các võ phái thuộc Văn-lang, tức là nắm được phân nửa đất Lĩnh Nam này vậy. Một đàng họ dựa thế của
chúng tôi để biết các võ phái thuộc Âu-lạc. Một đàng chúng lo tìm kiếm
võ kinh, để làm bá chủ.
Thiều Hoa chua chát:
– Vì vậy, Đào gia chúng tôi mới tan nát như ngày nay.
Nghiêm Sơn thở dài:
– Hoàng cô nương, tôi cần phải nói thực với cô nương một điều. Tôi là
người Hán sang đây cai trị người Việt. Người Hán cũng có kẻ ác, người
thiện. Như Nhâm Diêm, Tích Quang giả nhân giả nghĩa, làm cho người Việt
tin chúng, rồi chúng tỉa dần những người lương thiện. Còn tôi, dầu sao
cũng xuất thân nghĩa hiệp, không ham danh lợi. Chỉ vì gặp Kiến Vũ hoàng
đế trong cơn nguy khốn, tôi ra tay cứu giúp. Kiến Vũ hoàng đế đối với
tôi bằng tình bạn, cử tôi sang kinh lược đất Việt. Tôi mới tới, nghe báo cáo của phủ Tế-tác rằng đất Cửu-chân có chín Lạc-hầu, thì năm là người
lương thiện, hai là người chỉ thích văn học, nhàn nhã. Còn hai nhà Đào,
Đinh là đầu trộm, đuôi cướp. Tôi tin thực, mang quân vào trợ chiến. Giữa lúc giao chiến thì tôi gặp cô nương và tiểu sư đệ. Trong đêm đánh cảng
Bắc, tôi đã cảm thấy mình lầm lẫn. Đào hầu có một người con trai nhỏ
tuổi như tiểu sư đệ, văn võ tinh thâm; một nữ đệ tử ôn nhu văn nh