XtGem Forum catalog
Bộ Tứ – Agatha Christie

Bộ Tứ – Agatha Christie

Tác giả: Agatha Christie

Thể loại: Truyện dài tập

Lượt xem: 322555

Bình chọn: 10.00/10/255 lượt.

i thịt cháy khét lẹt bốc ra từ phòng làm việc của chủ. Cô định mở cửa, nhưng cửa khóa từ bên trong. Gérald Paytner và tên hầu người Tàu phải phá cửa để vào: ôi cảnh tượng kinh khủng! Ông Paytner ngã chúi đằng trước vào cái lò đốt ga, nên đầu hoàn toàn cháy thành than. Mặt không nhận ra tí nào. Ngay lúc đó, chưa ai nghi ngờ gì. Nếu trách ai thì thích ông bác sĩ Quentin đã không buộc người bệnh đi nằm sau khi tiêm. Nhưng rồi người ta tìm thấy dưới đất một tờ báo, hẳn là từ trên đùi ông già rơi xuống. Xem kỹ tờ báo, thấy có một số chữ nguệch ngoạc bên lề.

Bàn tay viết những chữ đó rất yếu. Lại thấy ngón trỏ bàn tay phải của nạn nhân bị giây mực đến đốt thứ hai. Không cầm được bút, ông Paytner đã nhúng ngón tay vào lọ mực (lọ mực để trên bàn, vừa tầm tay) và có viết mấy chữ “Hoa nhài vàng” lên lề tờ báo đang cầm. Nhưng mấy chữ ấy có nghĩa gì? Hoa nhài vàng nở rộ phủ kín các tường ở Croftlands nên có thể giả thử là hình ảnh đó đã đập vào mắt, làm ông già hấp hối viết ra câu đó. Báo chí luôn săn tìm tin giật gân, vớ ngay câu chuyện và đặt tên là “Bí mật Hoa nhài vàng”, mà thực ra mấy chữ ấy có lẽ chẳng có ý nghĩa.

– Anh cho là không có ý nghĩa? – Poirot hỏi – Rốt cuộc, anh đã nói thế, thì chắc là thế.

Tôi nhìn anh, ngạc nhiên, song không thấy ý giễu cợt gì trong ánh mắt. Tôi kể tiếp:

– Cuộc điều tra được tiến hành. Ngay từ đầu người ta đã có định kiến với bác sĩ Quentin. Trước hết, ông ta không phải là bác sĩ quen của gia đình, mà là người thay thế bác sĩ Bolitho đang đi nghỉ. Sự bất cẩn của Quentin có vẻ là nguyên nhân trực tiếp của tai nạn. Nhưng từ đó mà bảo là giết người thì còn xa. Cũng phải nói thêm ngay khi đến ở “Croftlands” ông Paytner đã sinh ra đau yếu, và bác sĩ Bolitho đã điều trị ông được một thời gian. Khi bác sĩ Quentin tiếp xúc với ông lần đầu, ông đã thấy một số triệu chứng đáng ngại. Trước buổi tối oan nghiệt, Quentin mới chỉ xem bệnh cho Paytner có một lần. Khi gia nhân mời ông đến gấp, ông đã thấy người bệnh ở trong cơn kích động kỳ lạ. Paytner nói ông không cảm thấy ốm đau gì, nhưng món càri ông vừa ăn có mùi là lạ, vì vậy ông đã đuổi Ah Ling ra ngoài, rồi đổ món ăn từ đĩa vào bát đưa cho bác sĩ để đem đi xét nghiệm. Quentin khẳng định Paytner không ốm, nhưng bị xúc động quá ảnh hưởng đến tim; nên cần tiêm một ống strychnine, chứ không phải moócphin. Tôi nghĩ đã kể hết, và nói thêm kết quả xét nghiệm: món càri đúng là có lẫn một lượng bột thuốc phiện đủ để giết chết hai người!

– Vậy kết luận của anh ra sao? – Poirot bình tĩnh hỏi.

– Thật khó kết luận. Paytner rất có thể chết do tai nạn; mưu đồ đầu độc chỉ là một sự trùng hợp đúng tối hôm ấy.

– Hãy thú nhận rằng đối với anh, đây là vụ giết người thì hợp lý hơn!

– Còn với anh thì không?

– Anh và tôi, chúng ta không lập luận theo cùng một cách. Tôi không vội tìm kết luận; khi nào vấn đề kia được giải đáp hãy hay. Tôi muốn nói đến “Bí mật của Hoa nhài vàng”. À này, anh còn quên một chi tiết.

– Tôi đoán anh định nói đến hai gạch theo hình thước thợ ở dưới mấy chữ nguệch ngoạc bằng mực trên lề tờ báo? Quả là tôi không coi nó là quan trọng!

– Ta hãy để bí mật Hoa nhài vàng sang một bên mà xem xét món càri.

– Tất nhiên, có thể đặt hàng trăm câu hỏi: ai đã bỏ độc dược? Mục đích gì? vân vân… Ta biết Ah Ling là người dọn món ăn, nhưng vì lý do gì hắn lại định đầu độc chủ? Hay hắn nằm trong một “băng” tội phạm. Băng “Hoa nhài vàng” chẳng hạn? Rồi nữa, còn Gérald Paytner…

– Đúng, đúng, – Poirot gật đầu – anh ta là người thừa kế ông chủ. Nhưng chiều hôm ấy, hắn đi ăn ngoài thị trấn.

– Anh ta có thể dễ dàng vào bếp và trộn thuốc phiện vào một chất liệu nào đó dùng để nấu món càri! Hắn đi ăn ở bên ngoài để khỏi phải đụng đến thức ăn bị bỏ thuốc độc.

Lập luận của tôi có vẻ nghe được và, điều hiếm có Poirot tỏ ra rất quan tâm!

Tôi được khích lệ và tiếp tục trình bày giả thuyết:

– Gérald Paytner về muộn, thấy ánh đèn trong phòng ông chú, biết là kế hoạch đã thất bại, liền đẩy ông già vào lửa.

– Giả thiết này của anh không hợp lý – Poirot nói – Một người năm mươi lăm tuổi, còn vạm vỡ, lại chịu để bị đẩy vào lửa mà không chống cự?

– Được. Vậy thì đến lượt anh trình bày quan điểm.

Poirot cười, ưỡn cao ngực và nói như diễn giảng:

– Giả thử đây là vụ giết người, một vấn đề đặt ra ngay lập tức: tại sao lại chọn cách ấy? Tôi thấy chỉ có một lý do: để không ai nhận diện được! Bộ mặt bị cháy đen, và…

– Sao? – Tôi ngắt lời. Anh nghĩ là…

– Hastings, hãy khoan. Đó chỉ là giả thiết. Có thể nghĩ rằng đó không phải là xác ông Paytner? Mà là của một ai khác? Tôi xem xét hai câu hỏi ấy và xin trả lời: không.

– Vậy thì sao? – tôi thốt lên, thất vọng.

Poirot nháy mắt, nói tiếp:

– Vậy thì tôi tự nhủ có một cái gì đấy ta chưa nắm được và cần nghiên cứu vấn đề này. Không nên để lúc nào cũng bị ám ảnh vì lũ Bốn Người… À được rồi! Anh có biết cái bàn chải áo của tôi để đâu không nhỉ? À! Nó đây rồi. Nhờ anh chải cho tôi rồi tôi chải cho anh.

Bỏ bản chải vào vali, Poirot nói tiếp:

– Hừ, tôi lại bị một ý tưởng duy nhất thu hút… Này, hai gạch thước thợ mà anh