
ra: không bằng chứng gì để củng cố giả thuyết của chúng tôi. Không dấu vết gì của Bộ Tứ. Ông Ryland là người có tính tình và nhân cách đàng hoàng, và tôi nghĩ Poirot đã lầm khi coi ông ta là thành viên của cái tổ chức khủng khiếp nọ.
Một tối lúc đang ăn, tôi nghe ông Ryland noi đến tên Poirot.
– Người ta bảo tôi cái ông Poirot nay rất tài ba, còn tôi nói ông ta là là kẻ chạy làng! Tôi đã đề nghị một việc, ông ta nhận lời, thế mà đến phút chót, ông ta bỏ lửng! Tôi không tin nữa vào cái ông Hercule Poirot của các ông!
Những lúc đó, sao mà chiếc răng giả và mấy nệm bông làm tôi đau buốt óc!
Ít lâu sau, Ryland đi London suốt cả ngày, có Appleby theo. Sau tuần trà, cô Matin đi dạo với tôi trong vườn. Trông cô có vẻ buồn bã, lúng túng, nóng nẩy; tôi nhìn cô một cách cảm tình nhưng không dám hỏi. Tôi mến cô gái này và rất muốn giúp đỡ an ủi cô. Với linh tính phụ nữ, cô cảm thấy ngay.
– Ông Neville có biết là tôi định xin thôi việc?
Tôi ngạc nhiên nhìn cô, và cô nói tiếp:
– Tôi biết rõ là về mặt vật chất, chỗ làm ở đây rất tốt, không dại gì rồi bỏ; nhưng bị người ta lăng mạ thì tôi không chịu được! Nếu ông Ryland là người quân tử thực, ông sẽ không đối xử như thế.
– Ông ấy tỏ ra lỗ mãng với cô?
Cô gật đầu.
– Tính khí ông ấy hay cáu giận. Nếu ông ta ít nhiều biết tự kiềm chế, tôi còn chịu được. Nhưng hôm nọ ông ấy nổi xung ghê gớm vì một chuyện không đâu, làm tôi phải khiếp.
– Chuyện gì vậy?
– Như ông biết, tất cả thư từ của ông Ryland đều do tôi mở; một số tôi chuyển cho ông Appleby, số còn lại do tôi giải quyết. Trong khi phân loại, thỉnh thoảng tôi thấy những phong bì xanh đánh dấu con số 4 ở góc… Ông Neville, tôi xin lỗi, ông vừa nói gì cơ?
Tôi lắc đầu, yêu cầu cô kể tiếp. Sự thật là điều cô vừa nói đã làm tôi thốt lên một tiếng kêu.
– Những thư đánh dấu số 4 phải được chuyển nguyên si cho ông Ryland; điều đó tôi đã thuộc. Song hôm qua thư từ nhiều quá, trong khi mở vội, tôi đã lỡ mở một phong bì màu xanh đó. Biết là mình nhỡ tay, tôi đem ngay thư ấy đưa ông Ryland và giải thích sự việc. Không ngờ ông ấy nổi cáu kinh khủng, làm tôi sợ hãi thực sự.
– Thư ấy nói gì mà ông ấy lên cơn như thế?
– Chẳng có gì đặc biệt, thế mới lạ. Tôi đã đọc trước khi biết mình nhầm, và lá thư rất ngắn nên nội dung vẫn đọng lai trong óc tôi; đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi có gì mà quan trọng vậy!
– Thật à, cô vẫn còn nhớ? – Tôi hỏi, giọng khích lệ.
Sau một lát suy nghĩ, cô Martin chầm chậm nhắc lại:
“Thưa ông, điều cấp bách là qua gặp ông ấy để xem trang trại cùng mỏ đá. Giá tiền mười bẩy ngàn livrơ là mua được. Mười một phần trăm hoa hồng là quá đáng. Bốn phần trăm là đủ. Kính chào.
Arthur Leversham”.
Cô Martin nhún vai nói tiếp:
– Chắc đõ là một trang trại ông Ryland định mua, nhưng tôi coi một người nổi khùng lên như vậy là nguy hiểm. Ông là người kinh nghiệm, ông bảo tôi nên làm gì?
Tôi an ủi, nói rằng ông Ryland chắc đau chứng táo bón, vốn là căn bệnh truyền kiếp của người Mỹ, không nên quan trọng hoá vấn đề. Và cô Martin hoàn toàn bình tĩnh lại khi chúng tôi chia tay.
Phần tôi, tôi không bình tĩnh chút nào! Còn lại một mình, tôi ghi và đọc lại nội dung bức thư kỳ lạ. Bề ngoài vô hại, nhưng bên trong nó chữa đựng ý nghĩa gì? Có phải chỉ là một vụ mua bán mà Ryland không thích mọi người biết chi tiết? Nếu vậy sao lại có số 4 nhỏ ở góc phong bì? Phải chăng tôi đang trên đường tìm ra vết tích?
Cả đêm tôi nghiên cứu bức thư, mờ sáng tôi ngủ thiếp đi vì mệt, vẫn không tìm ra lời giải. Hôm sau đột nhiên lời giải hiện lên, và nó vô cùng đơn giản. Con số 4 là chìa khóa giải bí ẩn. Thật vậy, đọc thư nhẩy bốn chữ một, sẽ cho một câu ý nghĩa khác hẳn:
“Cấp bách gặp ông mỏ đá mười bẩy mười một bốn”.
Số mười bảy chắc tương ưng với ngày 17 tháng Mười, tức ngày mai; mười một là giờ, và bốn là chữ ký của “Số Bốn”, Kẻ Tiêu Diệt bí hiểm, hoặc đó là dấu hiệu ước lệ của một tên tay chân trong bọn.
Còn về mỏ đá, tuyệt thay, thật là rõ: cách lâu đài năm trăm mét, ngay trong khu vực trang trại, có một mỏ đá bỏ không nằm ở một nơi vắng vẻ, địa điểm lý tưởng cho một cuộc hẹn bí mật.
Trong một thoáng, tôi đã định tự lo việc này, để thêm một bông hoa trên vương miện! Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi đổi ý: trách nhiệm quá nặng nề, và tôi không có quyền đơn thương độc mã, có nguy cơ làm hỏng việc lớn.
Một khi chiếm được lợi thế với kẻ thù, cần phải khai thác tối đa. Poirot sẽ khôn khéo hơn tôi rất nhiều, điều đó tôi phải công nhận.
Tôi liền viết thư ngay, kể mọi chuyện cho anh. Anh sẽ tự nhận ra tầm quan trọng cửa cuộc hẹn này. Tôi nói sẵn sàng một mình lo toan việc này, nhưng cũng cho anh mọi chỉ dẫn cần thiết để tới mỏ đá, trong trường hợp anh thấy cần phải đích thân can thiệp.
Hôm sau, tôi như ngồi trên đống lửa. Không có khách khứa nào, nên tôi đành ở với ông Ryland suốt buổi tối trong văn phòng. Tôi đã đoán trước không thể ra đón Poirot ở sân ga, song tin rằng tôi sẽ được rảnh trước mười một giờ. Và quả nhiên như vậy.
Mười giờ rưỡi, ông Ryland nhìn đồng hồ và tuyên bố “tối nay thế là xong”. Không đợi bảo tới hai lần, tôi lên ph