
hẳm khó lường. Sóng cả ào ạt, nhưng lại có cái tinh tế
uyển chuyển. Đây chính là nước, có thể rửa trôi vui buồn, cũng có thể
xoá mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng, trang nhã ung dung, yên lặng
vui vẻ, không cầu không ước.
Thiền tâm là gì? Thiền tâm là một
bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh
non, là một luồng sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc
nền trong vở kịch nhân sinh. Thiền tâm là giữa núi rừng hoang vắng nhặt
nhạnh hết những cành cây lạnh lẽo khẳng khiu, là buông câu giữa trời
tuyết bên bờ sông trên chiếc thuyền nho nhỏ; cũng là vội vã qua qua lại
lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hồ mưa gió. Trong lúc bạn toạ Thiền, tâm để ngoài trần thế. Trong lúc bạn ở trần thế, tâm vẫn có thể nhập Thiền.
Mỗi người duy chỉ có mài giũa hết sự sắc nhọn của bản thân, mới có thể thực sự tự tại
bình thản. Khi đó, càng hiểu được cách bình tĩnh đối đãi với sự tụ tan
ly hợp của đời người, đón nhận khổ nạn và tang thương mà năm tháng mang
đến. Đã từng có những năm tháng rực rỡ, đến nay nhìn tưởng tịch liêu
thưa vắng, lại có vài phần phong cốt, tăng thêm ý vị. Duy chỉ có như
thế, mới có thể có được Thiền Tâm tỉnh táo và sáng suốt, dù khói mây
biến ảo, nước trôi ào ào, cũng không thay đổi sắc màu non sông.
“Lục Tố đàn kinh” viết: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn
pháp đều sinh ra từ tự tính[11'>; nghĩ đến hết thảy việc ác, thì sẽ làm
chuyện ác; nghĩ đến hết thảy việc thiện, thì sẽ làm điều thiện. Chư pháp như thế, đều từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt
trời luôn toả sáng, vì mây nối che khuất, mà trên sáng dưới tối, bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng tỏ, vạn tượng đều hiện rõ”.
[11'> Tự tính (sa. Svabhãva, ja. Jishõ) chỉ cái tính nằm sau mọi hiện tượng,
cái ngã. Theo quan điểm Đại Thừa, tất cả mọi sự đều không có tự tính
(sa. Svabhãva), vô ngã, tức là không có một cái gì chắc thật, riêng biệt đứng đằng sau các trình hiện. Điều đó không có nghĩa sự vật không có
thật, chúng hiện diện nhưng chúng chỉ là dạng xuất hiện của tính Không,
tự tính là tính Không. Đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng Bát Nhã
Ba La Mật Đa (sa. Prãnàparamitã) và Trung quán (sa. Madhyamaka). Tuy
nhiên, trong Thiền tông và các tông phái của Đại Thừa tại Trung Quốc,
danh từ “tự tính” được dùng để chỉ cho bản thể thật sự của chúng sinh,
vạn vật, đồng nghĩa với Phật tính (sa. Buddhatã, ja. Busshõ) và nên phân biệt nó với cái tiểu ngã mà Phật đã bác bỏ.
Mỗi một con người
khi sinh ra đều lương thiện, chỉ vì nhập thế quá lâu, trải qua quá nhiều chuyện, tiếp xúc với quá nhiều người, mới không còn từ bi nữa. Đây là
một quá trình từ lạ lẫm đến quen thuộc, từ đơn giản đến phức tạp, cũng
là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người, vòng qua mấy ngã rẽ, lại gặp lại bản thân lúc ban đầu, lại nhặt về sự giản đơn và
trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hối mới có thể giác ngộ tự nhận thức.
Có lẽ đợi đến ngày nào đó, thế sự như gió nhẹ mây nhàn, chúng ta sẽ không cần làm rõ ràng từng giấc mộng cũ. Mà
toàn bộ quá trình, chúng ta đã từng có được có mất, đã từng trải qua
biết bao hợp ly ly hợp, cũng đã từng có nhiều điều thiện ác, đều không
cần tính toán nữa. Bởi vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngã chân
thực của chính mình, có thể sống bình thản, thoải mái trong đất trời bao la, thì đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thể trong một đêm tĩnh
mịch, ngắm vầng trăng sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.
Mộng ảo phù sinh, đều là bèo bọt, như sương như sét, như mây như khói. Ngày
hôm qua gió ẩm bồ đề xanh, đêm nay sương nhuộm lá phong đỏ. Sinh mệnh
chính là một cuộc viễn hành của loài hồng hạc, đợi đến khi sóng xuân lui xuống, đến ngày gió thu nổi lên, mới hiểu được phải quay về. Khi đó,
bước qua hết vạn dặm giang sơn, thăm thú hết mọi miền quê đường dịch,
sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bỏ tất cả, gặp đâu vui đó.
Giấc mộng Nam Kha[12'>, núi trống rừng già. Chốn đào
nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khổ tứ đi tìm, hoá ra không phải ở non cảnh tiên bồng, mà là nằm trong nhân gian sắc màu sặc sỡ. Ở đây,
hoa rơi nước chảy không thành tiếng, sớm lạnh trong khói có lờ mờ; ở
đây, giữa rừng trúc chim hót véo von, chốn sơn tự tiếng chuông bảng
lảng. Ba canh gió tuyết, đã có thể khiến núi xanh bạc đầu; một bàn cờ
thế, đã có thể định rõ Hán Sở thắng thua; một chiếc thuyền nan, cũng đủ
để đến được bờ bên kia của Thiền.
[12'> Giấc mộng Nam Kha: bắt
nguồn từ tiểu thuyết “Tiểu sứ Nam Kha thái thú” của tác giả Lý Công Tá
đời Đường, kể về Thuần Vu Phần, say rượu nằm dưới gốc hoè, trong mơ
Thuần đến nước Đại Hoè, giành ngôi trạng nguyên, được làm phò mã, rồi
được cử làm thái thú đất Nam Kha. Rồi mấy chục năm trôi qua, xảy ra biến cố, Thuần Vu Phần bị nhà vua truất quyền cách chức, trở lại làm thường
dân. Tỉnh mộng, thấy dưới gốc cây hoè có một tổ kiến, Thuần hiểu ra nước Đại Hoè chính là tổ kiế