
chúng ta không cần kinh sợ, nó đem đến sự sướng khổ cho
chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, mở ra là tục thế khói
lửa, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền
cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm
không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân
thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.
Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một
người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi
trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột
cùng như thế?
Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ
phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che
khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh
khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì
lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một
sát na[7'>, vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
[7'> Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một
ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
“Hán thư[8'>” viết: “Nước trong
quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là
“vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng
bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế
gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm
tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại
như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
[8'> “Hán
thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên
soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không
dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được
sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau
này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt,
nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.
Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen
khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một
con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá
trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền
vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là
một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
Phật nói: “Nguyện giải thoát
vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật
pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng[9'>.” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có
tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù
quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà
thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi
giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn
như bay giữa trời cao vời vợi.
[9'> Là bốn câu “Tứ hoằng thệ
nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo
thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác
biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu
than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng
loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng
đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm
dưỡn