
n thích chúng,” nó nói.
“Con sắp bay,” Zorba nói thêm lần nữa.
“Con yêu má, Zorba. Má là con mèo tuyệt vời nhất thế giới,” Lucky nói, di chuyển về góc chót của dãy lan can bao quanh.
“Con sẽ bay. Cả bầu trời kia sẽ thuộc về con.”
“Con sẽ không bao giờ quên má và cả các bác mèo.” Lucky đã chấp chới vươn
nửa bàn chân ra khỏi gờ lan can, đúng như bài thơ của Atxaga đã nói, nó
mang trái tim của thần bay lượn.
“Bay đi!” Zorba la lên, chìa ra một bàn chân và hích con hải âu một cái thực là khẽ.
Lucky biến mất khỏi tầm nhìn, con người và con mèo sợ đến chết khiếp. Nó rơi
thằng xuống như một viên đá. Nín thở, họ vươn ra ngoài lan can, và rồi
họ thấy con hải âu, đang đập cánh, lượn qua bãi đỗ xe, rồi họ dõi theo
nó bay cao lên, cao hơn cả cái phong hướng tiêu mạ vàng đang tôn vinh vẻ đẹp độc nhất vô nhị nhà thờ Thánh Michael.
Lucky bay
một mình trong đêm quanh thành phố Hamburg. Nó bay đi xa, đập nhanh đôi
cánh của mình, cho tới khi đã bay cao vượt trên cả những cái cần trục ở
cảng, cao vượt trên cả những cột buồm, và rồi nó quay trở lại, lướt đi,
đảo hết vòng này đến vòng khác quanh tháp chuông nhà thờ.
“Con đang bay! Má Zorba! Con biết bay rồi!” Con hải âu la lên ngây ngất từ bầu trời xám xịt bao la.
Con người vỗ lưng Zorba. “Đó, anh mèo, chúng ta làm được rồi,” ông ta nói, thở phào.
Zorba ngẩn ra ngẫm nghĩ mất một lúc. “Phải. Từ chỗ không biết gì con bé đã thấu hiểu được điều quan trọng nhất,” Zorba.
“Ô, thế sao? Đó là cái gì?” con người hỏi.
“Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay.”
Ta chuẩn bị đi xuống đây. Ta đợi anh bên dưới,” con người nói rồi bước đi.
Zorba ngồi đó, dõi theo con hải âu cho tới lúc nó không biết những giọt mưa
hay nước mắt đã phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng, mập ú…
một con mèo tử tế, cao quý, một con mèo của bến cảng.
Laufenburg, Cánh Rừng Đen, 1996
HẾT