
ào Sài Gòn. Tôi đã giúp
ông có giấy phép sớm. Tôi không ngờ ông là ba cô bé. Tôi nói :
- Bác thuê được xe chở bắp cải chưa?
- Cám ơn cậu. Ðược rồi, bốn giờ sáng xe chở bắp cải sẽ chạy. Còn chúng tôi ở
lại sửa xe xong vào sau.
Cô bé reo lên :
- Vậy ông hên nhé. Ngày mai bắp cải sẽ đắt.
Người đàn ông nói :
- Cậu muốn mua bắp cải nữa, tôi vẫn để cho cậu giá đặc biệt.
Trước lòng tốt của người đàn ông, tôi phát hoảng, vì đã hai tối rồi tôi phải
ăn bắp cải trừ cơm. Tôi vội từ chối.
- Cám ơn bác. Tôi còn sáu bắp cải ở nhà. Dư ăn một tuần.
Thấy cô bé nháy mắt ra hiệu, tôi biết em đã nôn nóng muốn đi xem cải lương.
Tôi vội kết thúc câu chuyện bằng một câu quen miệng : “Sau cơn mưa trời lại
sáng, chúc bác may mắn”. Rồi tôi ngỏ ý muốn mời ông và cô bé đi xem cải lương
“giải buồn”. Ông nói :
- Cám ơn cậu. Lúc này tôi chẳng còn hứng thú xem cải lương, nhưng con nhỏ này
mê lắm, vậy nhờ cậu dẫn nó đi xem.
Tôi bắt tay chào ông và dẫn cô bé đi. Khi chúng tôi đi khuất chiếc xe vận
tải, cô bé nói :
- Em không ngờ ông cũng thuộc tên tuồng cải lương dữ.
Tôi ngạc nhiên hỏi :
- Tôi có thuộc tên tuồng cải lương nào đâu?
- Hồi nãy ông nói với em “Sau cơn mưa trời lại sáng” đó không là tên một
tuồng cải lương sao?
Tôi không hiểu cô bé nói thật hay đùa, nên đành nín thinh.
Sắp đến giờ trình diễn, khán giả đã vào rạp, chỉ còn bọn con nít bu đông bên
ngoài chực vào ké. Tôi đến phòng vé hỏi mua hai vé hạng ba. Họ nói hạng nhất,
nhì, ba đều đã hết, chỉ còn thượng hạng, tám trăm một vé. Cũng may tôi mới lãnh
lương hồi chiều; nếu không, tôi phải nói dối với cô bé là đã bị bọn móc túi lấy
bóp và dẫn em về.
Trong rạp đông nghẹt khán giả, thở không nổi. Nhờ mua vé thượng hạng, chúng
tôi đã được ngồi ngay dưới một hàng quạt trần. Có vậy tôi mới đủ sức chịu đựng
ngồi ở đây suốt ba tiếng đồng hồ.
Hồi chuông thứ tư vang lên. Ðèn trong rạp tắt hết và loa phóng thanh kêu oang
oang. “Kính thưa quí vị khán giả. Hôm nay đoàn Hoa Mai chúng tôi xin trình diễn
ra mắt quí vị vở tuồng “Duyên tình mong manh”. Một vở tuồng tình cảm xã hội đặc
sắc nhất và mới lạ nhất của soạn giả Ðức Thịnh. Với sự có mặt của các danh tài…”
Và tôi ngáp, mặc dù theo thông lệ, ở nhà mỗi tối đúng 10 giờ, tôi mới đi
ngủ.
Chắc tôi đã ngủ thẳng một giấc trong rạp, nếu không có những tiếng vỗ tay
vang lên rào rào. Trên sân khấu, anh kép chính và chị đào thương đang ôm nhau ca
những lời mùi mẫn, diễn tả mối tình trong trắng và mong manh như giấy pelure của
họ. Tôi ngạc nhiên thấy những người ngồi chung quanh và cô bé đã khóc dễ dàng.
Em đưa ống tay áo lên thấm những giọt nước mắt lăn trên má. Tự dưng tôi đâm
“thù” những người đang ca hát trên kia, vì họ đã giúp cho người khác khóc. Tự
người ta khóc chưa đủ buồn sao mà còn phải giúp người ta!
Cho đến khi tấm màn khép lại, nhạc ò e tạm biệt lên và đèn trong rạp bật
sáng, tôi cũng không hiểu họ đã diễn cái gì trên sân khấu. Tôi giữ cô bé ngồi
lại trên ghế, chờ khán giả ra bớt để đỡ chen lấn. Cô bé hỏi tôi :
- Ông xem hay không?
Tôi lắc đầu nói :
- Họ diễn thua tôi nhiều.
- Còn khuya. Ông mà biết diễn tuồng?
- Ðừng vội chê, nhỏ. Tôi mời em tối mai đến xem tôi trình diễn vở tuồng “Bữa
ăn tối tại nhà trọ”.
Ðạo diễn xong bữa ăn tối, tôi đi đón cô bé đến xem. Trong căn phòng chật hẹp,
dưới ánh đèn néon sáu tấc, chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhỏ. Trên
bàn, bày bắp cải bảy món, do tôi nấu theo quyển sách : “Tự học làm bếp”. Gồm có
: bắp cải luộc, bắp cải trộn giấm, bắp cải xào mì chay, bắp cải bằm chiên trứng,
bắp cải nấu canh thịt mỡ, bắp cải hầm xương heo, bắp cải muối dưa và món tráng
miệng đặc biệt là bắp cải sống.
Cô bé quan sát kỹ lưỡng món ăn rồi em hỏi :
- Sao toàn bắp cải vậy?
Tôi phân bua :
- Thì em có bán cho tôi món gì khác ngoài bắp cải đâu?
- Ăn xong, có đau bụng không?
- Ðau bụng hay không chắc em biết rõ hơn tôi vì bắp cải này của em mà.
Bữa ăn tiến triển một cách chậm chạp, nhưng thành quả rất tốt đẹp; vì sau
cùng, chúng tôi đã thanh toán hết các món ăn. Tôi thu dọn bát dĩa vào chậu rồi
đi pha trà. Cô bé nói :
- Ðể em rửa bát chén giúp ông.
Tôi xua tay.
- Em làm giúp, tôi sẽ mất thói quen và tối mai tôi không còn can đảm rửa chén
nữa.
- Sao ông không lập gia đình? Một người vợ sẽ giúp ông nhiều chuyện.
- Tôi đã biết giặt quần áo, biết đi chợ trả giá, biết nấu ăn, biết rửa chén,
vậy khỏi phải lấy vợ.
- Ông vẫn cần phải lấy vợ như thường.
- Tại sao?
- Ai săn sóc khi ông đau ốm?
- Nhà thương thí.
- Ai cằn nhằn ông khi ông về khuya hay say sưa?
- Trời đất quỉ thần ba má anh chị ơi! Bộ cần phải có một người cằn nhằn mình,
mình mới sống được sao?
- Ðúng vậy. Ông thấy đó, ai cũng ghét tiếng động nhưng thiếu tiếng động người
ta sẽ buồn chán và hoảng sợ ngay.
Nghe cô bé nói cũng có lý, tôi không biết bắt bẻ thế nào nên chọc tức em
:
- Vậy chắc em cũng rành chuyện cằn nhằn lắm hả?
Cô bé trả lời tỉnh bơ.
- Dĩ nhiên. Ðàn bà con gái ai không rành chuyện đó.
- Vậy em làm ơn cằn nhằn tôi một hồi đi.
Cô bé trợn mắt nhìn tôi.
- Bộ ông điên