
ấy anh ta như thế, tôi quyết định dùng cách khác, đổi giọng ôn tồn, cố
gắng giảng giải cho anh ta: “Quân Bắc Mạc không bao vây cổng nam nên Tề
Thịnh mới bảo ngươi đưa ta ra đó phải không? Nhưng thế có nghĩa gì?
Ngươi dù sao cũng là một người lính, chắc hẳn phải nghe đến nguyên tắc
‘bao vây vẫn phải để cho địch một đường lui’ rồi chứ? Bọn họ để lại cửa
nam chính là muốn chúng ta chạy trốn! Ra khỏi đây thì còn bao xa nữa mới đến được cửa khẩu Tĩnh Dương? Cũng phải đến gần hai nghìn dặm, đúng
không? Ngươi nghĩ bọn chúng sẽ để chúng ta chạy trốn một cách thuận lợi
sao?”.
Lý Hoằng hơi khựng lại nhưng vẫn nói: “Có bỉ chức ở đây, nhất định có thể đưa nương nương về Tĩnh Dương an toàn”.
Đối với loại người mềm cứng không được, mỡ muối không vào này, tôi cũng đành bất lực.
Lý Hoằng bế tôi rảo bước xuống khỏi tường thành rồi rẽ trục đường chính ra cửa thành. Một đội binh sĩ từ phía đối diện chạy lại chen qua chúng
tôi, hình như là được điều động từ nơi khác đến hỗ trợ. Ánh mắt của tôi
dõi theo họ, vô tình nhìn thấy hình bóng đó trên cổng thành.
Dáng người cao thẳng, oai hùng, dây tua rua trên mũ sắt đỏ thắm hiên ngang
đón gió, tà áo khoác màu đen bị gió thổi tung, lộ rõ thân hình mặc áo
giáp vàng toả sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, trông chẳng khác gì
thần tướng thiên đình giữa cảnh hỗn loạn.
Ánh mắt của anh ta xuyên qua đám đông hỗn loạn dừng lại trên người tôi, điềm tĩnh nhưng rất xa xăm.
Tôi sững người, nhìn anh ta không rời mắt.
Khoé miệng anh ta khẽ nhếch lên, nét cười lạnh nhạt thoáng qua, dùng khẩu hình nói với tôi: “Hãy tiếp tục sống”.
Sau đó liền không chút do dự quay người đi.
Tôi hít một hơi thật sâu, kề thanh kiếm vẫn cầm trong tay lên cổ Lý Hoằng, nói dứt khoát ngắn gọn: “Quay lại”.
Có lẽ Lý Hoằng đinh ninh tôi không dám ra tay nên cũng chẳng quan tâm gì tới tôi, tiếp tục bước nhanh.
Tôi dùng sức cứa vào cổ anh ta khiến máu chảy ra: “Đây là động mạch chính,
chỉ cần cắt đứt thì thần tiên cũng không cứu nổi ngươi. Quay lại! Đừng
ép ta giết người”.
Lý Hoằng cũng là người biết thời biết thế, nghe tôi nói vậy thì hơi cứng người lại rồi lập tức quay người chạy lên tường thành.
Trên tường thành, Tề Thịnh tay đặt lên đốc kiếm, bình tĩnh chỉ huy cuộc
chiến thủ thành, đến khi quay đầu lại thấy tôi ở bên cạnh thì không thể
bình tĩnh được nữa, mặt tối sầm, hỏi: “Sao nàng còn quay lại? Lý Hoằng
đâu?”.
Lý Hoằng vội cúi đầu tiến lên trước, đáp: “Có bỉ chức”.
Tề Thịnh sững người, động tác tiếp theo là giơ chân đạp Lý Hoằng.
Tôi lấy tay che mắt, bụng thầm nghĩ, đến lúc này còn cố lên tiếng trả lời, tên ngốc này rõ ràng là muốn ăn đạp mà.
Tề Thịnh đạp Lý Hoằng xong, quay người lại, lạnh lùng hỏi tôi: “Nàng có đi không?”.
Tôi kiên quyết lắc đầu: “Không đi, chàng là người gian trá, xảo quyệt nhất, chỉ có ở lại bên chàng mới an toàn”.
Tề Thịnh tức đến không nói nên lời, nghiến răng nghiến lợi trừng mắt với
tôi một hồi lâu, lúc này mới quay đầu lại hỏi Lý Hoằng vẫn đang quỳ gối
dưới đất: “Áo giáp đâu? Áo giáp của Hoàng hậu đâu?”.
Lý Hoằng
nhất thời ngây ra, lúc ở trong viện anh ta đã đưa áo giáp cho Tả Ý, sau
đó tôi rút kiếm xông ra, anh ta chỉ lo đuổi theo tôi, còn tâm trí đâu mà quan tâm tới áo giáp nữa.
Tên thị vệ bên cạnh anh ta lại khá lanh lợi, thấy tình hình như thế liền cởi nhuyễn giáp của mình ra, hai tay dâng lên Tề Thịnh.
Tề Thịnh lạnh lùng “hừ” một tiếng, cầm lấy rồi trực tiếp choàng lên người tôi.
Ở thời khắc sống còn, tôi cũng chẳng khách khí làm gì, vừa buộc dây áo
giáp vừa quay đầu lại nói với tên thị vệ kia: “Cám ơn nhiều, tiểu huynh
đệ!”.
Khuôn mặt của thị vệ kia thoắt đỏ bừng, bối rối không nói nên lời.
Tôi liếc anh ta, không chút khách sáo, nói: “Này? Cho mượn luôn chiếc mũ sắt đi”.
Tên thị vệ sững ra rồi vội bỏ mũ sắt xuống, mới đưa được nửa chừng thì Tề
Thịnh đã cầm lấy rồi đội lên đầu tôi, lạnh lùng dặn: “Nàng ở đằng sau,
nếu xảy ra chuyện gì thì phải nghe theo sự sắp xếp của Lý Hoằng”.
Tôi gật đầu, đưa mắt lên nhìn anh ta, trịnh trọng nói: “Tề Thịnh, hai chúng ta phải sống, dù thành có bị công phá thì cũng vẫn phải cố gắng sống
tiếp. Uy nhi và Hạo nhi vẫn đang ở Thịnh Đô chờ chúng ta, vì hai con,
chàng và thiếp đều phải sống”.
Tề Thịnh đang cài mũ cho tôi, nghe những lời này động tác hơi khựng lại, lát sau mới gật đầu trả lời: “Được”.
Chiếc mũ sắt hơi to khiến tôi cảm thấy rất không thoải mái.
Để khích lệ tinh thần binh sĩ, cờ rồng của Tề Thịnh được dựng lên rất cao, không những người trên thành nhìn thấy rõ mà phe Bắc Mạc ở dưới thành
cũng thấy vô cùng rõ ràng, vì thế nên lại càng quyết tâm tấn công mạnh
mẽ hơn.
Những tiếng la hét ở ngoài thành như sắp rung chuyển trời đất khiến tôi không khỏi kinh hãi, nhịn không được thầm trách Tề Thịnh: “Tề Thịnh ơi là Tề Thịnh, chàng bảo ta phải nói chàng thế nào bây giờ,
chàng tính toán cho lắm vào để giờ thì đến tính mạng bản thân cũng sắp
mất luôn rồi! Có tên trộm nào to gan như chàng không? Bên mình chỉ có ba vạn người mà dám vờ như hai mươi vạn người, chàng tưởng người khác đều
ngu ngốc hế