
ọn họ mò vào mật đạo, có thể coi như đầu kinh nghiệm, Hạ Băng còn mượn đèn pin của Cố A Thân, chỉ tiếc rằng quá hao điện, còn không lâu bằng thắp bùi nhùi, nên về sau đành đem theo đèn lồng, củi nến cũng chuẩn bị một ít. Đỗ Xuân Hiểu mang cả than củi viết lên từng cánh cửa đánh dấu, biểu thị đã từng vào, cũng như nơi nó dẫn đến,
Nhưng không bao lâu bọn họ liền phát hiện, lần tiếp theo vào mật đạo các lý hiệu viết bằng than trên tường trên cửa đều đã bị xóa sạch, có thể thấy trong này còn có người khác, bèn chạy khắp nơi định "bắt sống địch", nhưng dưới lòng đất phức tạp như mê cung, Đông Tây Nam Bắc đều không phân biệt nổi, nào truy bắt nổi người. Nói như Đỗ Xuân Hiểu thì là: "Vàng đã đào được rồi, chỉ đáng tiếc không đem đi được, công cốc."
Những ngày này, Lý Thường Đăng cũng hết sức bận bịu, sau khi dọn đến nhà Giản Chính Lương, ông ta vội vàng đem tiền giấu vào nơi an toàn, còn mượn danh nghĩa phá án, ra ra vào vào nhà họ Hoàng. Mỗi lần như vậy Trương Diễm Bình chỉ đần mặt đón tiếp ông ta, nhưng Lý Thường Đăng vẫn có thể nhìn ra nét tao nhã xưa kia trên dung mạo héo hắt của bà, hiện giờ bà giống như một "vật kỷ niệm" nào đó, bám bụi và bị năm tháng mài mòn. Nhưng cũng vì thế, tình yêu của ông ta đối với Trương Diễm Bình càng vững bền hơn cả khi còn trẻ, điều này khiến Lý Thường Đăng cảm thấy yên lòng.
"Bà còn nhớ tôi không?"
Vì có người hầu ở bên nên ông ta hỏi rất mập mờ, vờ như chỉ tùy tiện thăm dò bệnh tình bà ta.
Bà ta giương đôi mắt mông lung, nhìn theo con sẻ xám lướt qua khóm cúc vạn thọ bên ngoài cửa sổ, thứ mùi là tỏa ra từ đầu tóc nói lên tình trạng đã lâu không được chăm sóc tận tình, môi khô tróc vảy, mười đầu móng tay cụt ngủn, đường hằn ngang dọc hiện rõ trên da, khắp người từ trên xuống dưới toát lên vẻ xơ xác, như bị đóng dấu "Thất sủng". A Phụng càng bơ phờ bệ rạc, dựa vào bàn thêu túi hương, thêu được mấy đường lại ngáp một cái, mới đầu còn hoảng hốt mỗi khi Lý Thường Đăng ghé thăm, về sau vô số lần tăng dần, lòng nhiệt tình lại giảm bớt, chỉ uể oải bưng trà lên cho xong chuyện, đến tiếp nước cũng không buồn làm.
"Đợi tôi, không lâu nữa đâu!"
Lý Thường Đăng uống cạn một hơi chén trà hoa cúc trong tay, thầm hứa với Trương Diễm Bình, vị thanh ngọt của nước trà ngưng đọng trong lệ đắng, rỉ ra nơi khóe mắt, ông ta đưa tay quệt vội rồi bỏ đi.
Trương Diễm Bình vẫn ngồi im tại chỗ, như một pho tượng tàn phế phủi bụi, ánh nắng dịu dàng sượt qua má bà ta, không để lại chút vết tích ấm áp nào.
Bài vị tổ tiên trong Phật đường đã được lau sắp mòn cả đi, vì Hoàng Thiên Minh là trẻ mồ côi đi lên từ tay trắng, cha mẹ mình họ tên thế nào còn không biết, nên tổ tiên được cúng tế thực ra là người bên nhà Mạnh Trác Dao, bao gồm cả cha mẹ, ông bà ngoại, cùng một vị tháo công nghe nói sống hơn trăm tuổi của bà ta.Phật đường rộng, chỉ đặt mấy bài vị ấy quả cũng hơi khó coi, nhưng người tinh ý đều hiểu, quy củ truyền thống này không phải nhất thời đặt ra trong một sớm một chiều mà là cách thức giao tế của Hoàng Thiên Minh, muốn gia nghiệp bền vững thì cội nguồn phải lo cho tốt, từ đó làm ăn mới thịnh vượng, thuận buồm xuôi gió.
Trong nhà tuy người ra vào vô cùng náo nhiệt, nhưng Mạnh Trác Dao lại đặc biệt thanh nhàn, đang ngồi trong phòng con gái uống trà. Hoàng Mộng Thanh biết bà nhất định sẽ kêu ca than vãn một tràng, vội gọi Ngọc Liên đem ít hạt hướng dương tới, để hai mẹ con nói chuyện.
"Theo con thấy, mẹ cứ yên tâm ngồi đây hưởng phúc nhàn, tội gì phải lao tâm khổ tứ? Mẹ Hai có làm tốt đến đâu cũng chỉ là làm hộ mẹ thôi, lẽ nào mẹ quên bài vị nhà ta cần tế bái là của những ai rồi?"
Hoàng Mộng Thanh đành khuyên giải như vậy.
Nào ngờ Mạnh Trác Dao vẫn lắc đầu nói: "Có những chuyện bọn con còn trẻ không hiểu nổi đâu, từ xưa nhà ai mà chẳng phải xảy ra ít họa to họa nhỏ, con nghĩ nhà mình thì không chắc? Cái chính là cha con bị sắc dục làm mờ mắt, chỉ nhìn ra cái không tốt ở mẹ, còn nhìn thấy cái tốt ở người khác."
Nói rồi, trong mắt thoáng nét thê lương.
Đang trò chuyện lại thấy Ngọc Liên xồng xộc chạy vào bẩm: "Có cô Đỗ tới!"
Hoàng Mộng Thanh thoạt ngạc nhiên, rồi lập tức bày ra vẻ mặt tức giận, chỉ nói: "Cứ kêu vào đây, phải hỏi xem mấy ngày nay cô ta đi đâu lập đàn làm phép đóng vai bà cốt."
Vừa dứt lời, Đỗ Xuân Hiểu đã tự ý chạy vào, mở miệng đã kêu khát đòi uống trà. Mạnh Trác Dao dở khóc dở cười, nói: "Con xem Đỗ tiểu thư bây giờ hệt như người nhà ta, chỉ là không biết nên coi như con gái hay coi như đứa ở nữa."
"Không giống con gái, cũng không giống đứa ở, mà như lão tổ tông nhà chúng ta, phải hầu hạ thế này đây." Câu nói này của Hoàng Mộng Thanh chọc mấy người xung quanh đều phải bật cười, duy có Đỗ Xuân Hiểu vô tâm vô tính chỉ chăm chăm uống trà lạnh, uống sạch rồi mới thở phào một hơi.
Hoàng Mộng Thanh thấy mặt mày mình mẩy cô toàn bùn đất, bèn chau mày nói: "Xem ra không phải đi làm bà cốt mà đi làm ruộng hả, bẩn thỉu thế này."
Đỗ Xuân Hiểu đưa mu bàn tay quệt miệng, cười nói: "Không phải làm ruông, mà là chơi một trò còn thần kỳ hơn!"
"Trò gì?" Mạnh Trác Dao cũng nổi tính tò