
ười Việt đã ngoài sáu mươi. Tiền thân của
khách sạn là một nhà hàng chuyên bán món Việt được mở từ những năm 50
thế kỷ trước, nổi tiếng với món chim bồ câu quay, đến nỗi cứ tới năm giờ chiều, các bàn ăn lại chật cứng thực khách cả Tây lẫn ta với những cái
đùi chim vàng óng, bóng mỡ trên tay. Vũ không có nhiệm vụ gì với món gia truyền đó, cho nên cứ đến bốn rưỡi chiều, sau khi dẫn khách đi chợ về
là Vũ yên tâm nhảy lên con Chaly cúc cu ông chủ cho mượn, dựng ngoài vỉa hè với xấp giấy thông báo để sẵn ở giỏ xe, phóng đi khắp nơi.
Dù đã đi khắp chốn ở đất này, đối mặt với hầu hết các cột điện ở thủ đô
nhưng lúc nào Vũ cũng có cảm giác xa lạ. Đường phố chật như nêm nhưng
không có người nào Vũ quen. Giờ đây, mỗi lần dừng xe trước một cái cột
điện, định dán tờ thông báo mới thì phát hiện ra ở đó đã có sẵn một tờ
tự bao giờ, Vũ cũng nhớ tới ngày đầu tiên anh đến đây. Hình ảnh cô gái
với mái tóc thẳng cắt bằng hơi nghiêng đầu, cười hồn nhiên trên những tờ thông báo đã mờ. Góc giấy có in số điện thoại của Vũ nằm bên dưới
thường bị bong ra, bay lật phật. Gương mặt cô gái trên tờ thông báo đó
và mùi khói nồng nồng, khen khét ở ban công nhà hàng xóm là hai thứ duy
nhất ở thành phố này có chút liên hệ với anh, khiến anh thấy ấm áp và
gần gũi.
Vẫn là số ẩn đang gọi và đoạn nhạc chuông đơn sắc của Di vang lên tẻ nhạt.
Ngoại ô lùi lại phía sau lưng Di, một ngày qua đi thật vội. Di ngả người trên ghế taxi, cắm earphone vào điện thoại rồi bấm nút trả lời. Đường
phố thay cho cảnh đồng quê đang loang loáng lướt qua bên cửa sổ. Phía
bên kia đầu dây im lặng, chỉ thỉnh thoảng vọng lại vài âm thanh lạo xạo
và tiếng thở nhè nhẹ khi xa khi gần. Bác tài tế nhị vặn nhỏ nhạc. Di ngả đầu vào cửa sổ, đặt máy ảnh sang bên cạnh. Thành phố về đêm thật khác
lạ, giống như cô thiếu nữ lao động mới vui sướng khoác lên mình cái áo
đắt tiền để dành trong tủ vậy, để rồi hôm sau, trong ánh sáng ban ngày
lại trở về vẻ cần cù, nhẫn nại, bươn chải và vất vả đến tội nghiệp. Mỗi
đêm giống như một giấc mơ. Con người trong thành phố này cũng sống cùng
giấc mơ đó. Những con đường Di đi qua, người ta cười với nhau, nói với
nhau, dịu dàng với nhau trong những cái chạm tay, những cái ôm, những
ánh nhìn. Khi thành phố sáng đèn lung linh, dường như không có ai là kẻ
lạc loài. Tiếng thở ở đầu máy bên kia đều đặn hơn, hòa lẫn trong tiếng
radio rè rè:
“Is your heart filled with pain, shall I comeback again?
Tell me dear, are you lonesome tonight?”
(Trái tim em đong đầy nỗi đau, anh có thể quay về?
Hãy nói cho anh biết, đêm nay em có thấy cô đơn?)
Di muốn mở cửa để những cơn gió rét mướt ngoài kia làm cho cô tỉnh giấc.
Di về đến quán, tiếng nhạc khá nhộn, chắc giờ này khách đã đông. Cô hít
đầy lồng ngực một hơi lạnh lẽo rồi bước vào. Cả những bàn gần lối ra
cũng đã chật kín người. Di len qua đám đông vội vã, đập tay với ai đó,
gật đầu với một người khác, nhận cái vỗ vai từ cô bạn quen. Vinh và Thu
đang tất bật ở quầy bar, Vinh pha nước và Thu chạy bàn. Thằng Phương bê
một đống ly len vào đám đông gần đó rồi quay lại. Nó ngồi xuống ghế, bên cạnh một thằng bé. Thằng bé mặc mỗi cái cardigan màu xanh nước biển
mỏng manh bên ngoài áo chemise trắng cài kín cổ, gương mặt bầu bĩnh.
Nhìn gương mặt đó, Di đoán nó chắc chỉ mới hai mươi. Phương châm thuốc
hút, choàng tay qua vai thằng bé rồi nheo mắt vẫy Di lại. Phương hất đầu về phía bên phải, Nam và Thy đang ngồi đó. Thấy Di, Thy cười tươi rói,
Nam đập đập tay vào cái ghế bên cạnh: “Đi đâu đấy? Làm hai đứa anh đợi
mãi.”
“Vậy à?” Câu hỏi của Di bật ra, lạnh cóng và khô khốc.
Di cười gượng: “Mọi người uống đi, em vào lấy thêm chai nước lọc, khát quá”, rồi quay người đi vội vã.
Nam hơn Di nhiều tuổi nhưng ít khi cô dùng ngôi nhân xưng khi nói chuyện.
Anh là anh mà cũng là bạn, thân thiết mà cũng xa xôi. Anh biết Di khi
anh đã đủ lớn để mở lòng mà không dốc tất cả cho ai hết. Những điều mà
Di không biết về anh tạo thành một khoảng cách vô hình nhưng hợp lý giữa hai người bạn. Di biết là anh luôn quan sát, nửa như xét đoán, nửa như
quan tâm đủ để Di lo sợ anh sẽ nhận ra câu trả lời của cô hôm nay lạnh
và khô hơn thường lệ.
Cô ca sĩ người Philippines nhỏ bé nhưng rắn rỏi với nước da ngăm ngăm vừa
cất giọng giới thiệu đã lập tức nhận được tràng pháo tay hưởng ứng của
mọi người. Lần đầu tiên nghe Kimora hát What’s Up, Di cảm thấy
rất khó chịu. Không phải là âm điệu mạnh mẽ muốn vùng vẫy, muốn vượt
thoát như thường thấy mà là sự cùng quẫn trong bế tắc. Nghe xong, có lẽ
người lạc quan nhất cũng thấy tuyệt vọng. Nghe đến lần thứ bao nhiêu đó
Di mới nhận ra rằng, Kimora không nhập thân vào bài hát mà bài hát này
nhập thân vào cô. Qua khóe môi mỏng và đôi mắt buồn vô hạn kia, lời bài
hát chảy tan ra như một dòng âm thanh mảnh sắc lạnh.
“Twenty-five years I’m alive here still
Trying to get up that great big hill of hope
For a destination.”
(Hai mươi lăm năm và cuộc đời tôi vẫn tiếp tục
Cố gắng vực dậy niềm hy vọng lớn lao
Cho một dự định.)
Di có một thói quen nho nhỏ,