
ơng ít ỏi hàng tháng của người cha làm công
nhân. Kí ức của tôi còn in đậm hình ảnh Thành, chỉ toàn mặc quần áo cũ, hơn
nữa, còn vá chằng vá đụp. Thành không cao, người xương xương, học rất chăm
nhưng thi lại chẳng bao giờ được điểm cao. Gia đình tôi khi ấy lại khá giả, ba
mẹ đều là giáo viên, tôi là con một. Điều kiện gia đình như thế nên lúc nào tôi
cũng tự hào. Ba mẹ tôi chỉ có mình tôi là con cưng nên luôn cho tôi ăn ngon mặc
đẹp, lại là giáo viên trong trường, vì thế mà các thầy cô giáo trong trường ai
ai cũng rất tốt với tôi, thường xuyên quan tâm chăm sóc. Tôi giống như một nàng
công chúa kiêu sa trong mắt bạn bè cùng lớp. Thành ngồi chung bàn với tôi, ít
nói và luôn nhường nhịn tôi. Tôi bảo làm cái gì Thành cũng cố gắng làm, nhất là
việc dọn dẹp vệ sinh trường lớp. Tôi cũng không để Thành làm không công, hũ mực
của tôi chủ yếu để tôi và cậu ấy dùng chung, coi như tôi đền công. Nhưng sau
đó, xảy ra một chuyện làm tổn thương đến lòng tự trọng của Thành. Năm học lớp
11, một hôm, tôi thấy trong cuốn sách ngữ văn của mình có kẹp một lá thư Thành
viết, chỉ có mấy dòng ngắn ngủi, đại ý là Thành rất thích tôi, hy vọng là chúng
tôi có thể trở thành bạn bè hơn mức bình thường một chút. Tôi hiểu ý Thành.
Nhưng khi ấy tôi lại vô tư đem bức thư đó lên mách thầy giáo. Biết được chuyện
này, ngay chiều hôm ấy, Thành không dám bén mảng tới lớp, sau đó nghỉ học luôn.
Thành không đi học nữa, tôi lại thấy trống vắng, và ngày càng buồn bã. Cuối
cùng một hôm tôi cố gắng thu hết can đảm đi đến nhà Thành hỏi thăm thì mới hay
Thành đã chuyển sang trường khác. Thì ra, tối hôm đó, thầy giáo chủ nhiệm lớp
đã đưa bức thư đó cho ba tôi, ba tôi cầm bức thư đó đến tìm ba mẹ Thành. Ông
chẳng thèm nể nang gì, nói cho cha mẹ Thành một trận. Cha mẹ Thành lại thật thà
cho rằng Thành làm thế là bôi tro trát trấu vào mặt cha mẹ mình, là thằng mất
dạy, nên không cho Thành học tiếp nữa. Thành khổ sở van nài cha mẹ mình chuyển
trường để học hết bậc phổ thông. Sau cùng, hai ông bà quyết định chuyển Thành
sang một trường phổ thông khác ở ngoại ô. Thực sự bất mãn với cách cư xử của ba
mẹ mình, về đến nhà tôi đã phê phán ba mẹ rất gay gắt, tôi cho rằng xử sự như
vậy là rất quá đáng, nhưng ba mẹ tôi vẫn không thấy là họ đã sai.
Một tháng sau, tôi nhận được thư của
Thành. Trong thư, Thành nói thật lòng yêu tôi, và tự nhận rằng cách cậu xử sự
lúc trước là quá đường đột, cậu ta chỉ trách tôi là lẽ ra không nên đem tờ giấy
đó đưa cho thầy giáo. Thành nói, “Tuyết Nhi, cậu không biết được là khi vứt đi
bức thư đó là cậu đã vứt bỏ luôn cả trái tim của một chàng trai yêu cậu”. Tôi
nhớ, hôm đó đọc xong thư tôi đã khóc, thế rồi tôi vội vàng viết một lá thư xin
lỗi Thành. Nhưng kể từ lần đó, Thành bặt vô âm tín. Mãi đến năm thứ nhất đại
học, một lần có dịp về nhà, tôi mới hay là Thành đã nhập ngũ, đóng quân ở Quế
Lâm. Đó chính là khoảng thời gian buồn nhất giữa tôi vàThành.
Lần kế tiếp gặp Thành là khi tôi tốt
nghiệp xong đại học và bỏ cơ hội làm việc ở Long Tây, Cam Túc vì Hà Quốc An.
Thực ra khi ấy Thành đã giải ngũ và được phân công công tác ở Viện Tư pháp Nhân
dân Thành phố. Lần ấy, trên xe buýt, có một anh chàng gọi tôi, nhưng tôi thấy
người đội mũ bộ đội này lạ hoắc. Anh cười cười nói, “Mình là Thành, ngồi chung
bàn với bạn hồi phổ thông đây mà”. Tôi ngạc nhiên, rồi vui mừng nhảy cẫng lên,
“Có thật là bạn đấy không, Thành?” Thì ra tôi và Thành cùng sống trong một
thành phố, và ngẫu nhiên sao chúng tôi gặp lại nhau.
Thành đúng là khiến người ta khó
quên.
Thứ sáu, ngày 30 tháng 3
Trời nắng
X ế chiều, tôi đi đến quán trà ở công viên San Hô, Thành và Đạt Minh đã đợi tôi
ở đó từ lâu.
Thành vui vẻ đùa, “Tuyết Nhi, cậu
vẫn đẹp như xưa, vẫn là nàng công chúa kiêu ngạo”.
Tôi nói, “Kiêu ngạo gì chứ, mình chỉ
là một phụ nữ bất hạnh mà thôi”.
Đạt Minh tiếp lời, “Tuyết Nhi! Nghe
nói cậu ly hôn rồi phải không?”
Câu nói của Đạt Minh vô tình chạm
vào nỗi đau trong lòng. Tôi chỉ biết im lặng cúi đầu, nhấp một ngụm trà. Lúc
ngẩng đầu lên, tôi thấy ánh mắt Thành cứ nhìn chằm chằm vào tôi, như thể muốn
hỏi tôi, “Tuyết Nhi! Đó có phải là sự thật hay không?” Tôi gượng cười nói, “Có
gì đâu, ly hôn thì ly hôn, thời nay, sợ quái gì ai cơ chứ”. Không ai nói gì
nữa. Đạt Minh đánh tan không khí trầm mặc, “Thôi quên chuyện này đi, mình bàn
chuyện họp lớp đi chứ”. Thế rồi chúng tôi thảo luận và đưa ra chương trình, mục
đích, thời gian và các vấn đề liên quan khác của buổi họp mặt. Sau đó, Đạt Minh
nói công ty có việc phải đi, chỉ còn lại tôi và Thành.
Thành an ủi tôi, “Tuyết Nhi, cậu
đừng có nghĩ ngợi nhiều làm gì, hãy tìm một người đàn ông khác tốt hơn mà chung
sống, ở xã hội bây giờ, cái chuyện thề non hẹn biển, sống với nhau đến đầu bạc
răng long là xưa rồi. Tội gì cứ nghĩ mãi chuyện này cho khổ thân”.
Tôi lặng thinh thầm nghĩ, Thành vẫn
như hồi phổ thông, nói chuyện cứ hay cả thẹn như thế. Tôi biết Thành còn nhiều
điều muốn nói nhưng khó biểu đạt hết bằng lời. Tôi nhìn Thành, “Thành à, chuyện
hồi đi học