
ầu không. Thanh sơn y cựu tại, kỳ độ tịch dương hồng. Bạch phát ngư
tiều giang chử thượng, quán khán thu nguyệt xuân phong, nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng, cổ kim đa thiểu sự, đô phó tiều đàm trung.” (3) Ta chậm rãi phe phẩy chiết phiến, ngàn vạn hào hùng.
Ta vừa đọc xong, vang lên tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ tay kia không phải phát ra từ Mộng Lộ, mà phát ra từ vị soái ca kia.
Ta mặt không biến sắc, tiêu sái cười với hắn một cái, xem như đáp lễ.
“Mộng Lộ tâm phục khẩu phục.” Vừa rồi mới là khẩu phục.
“Quá khen.” Đạo văn mà, thực sự ngại quá đi mất.
“Hai vị công tử, vị công tử này đã thắng Mộng Lộ, đương nhiên là quý khách
của ta, hai vị, thỉnh.” Mộng Lộ bắt đầu hạ lệnh đuổi khách.
Tiểu bất điểm tựa hồ không cam tâm, “Chúng ta…”
“Phượng huynh, có thể tìm một chỗ nói chuyện được không.” Soái ca trừng mắt nhìn tiểu bất điểm, cắt đứt lời nàng.
Giương mắt lên, đối diện với đôi mắt thâm thúy mê người của hắn.
Ta tự nhiên hướng mắt sang chỗ khác, thản nhiên nói, “Nếu đã tới, chi bằng nghe Mộng Lộ cô nương tấu một khúc rồi đi.” Vất vả lắm mới gặp được mỹ
nữ, mới vậy đã đi rồi? Ta mặc kệ.
“Không biết công tử muốn nghe cái gì?” Giọng nói Mộng Lộ mang theo vài phần tiếu ý.
Ta mặt không đỏ, thở không loạn, “Thập bát mạc.” (18 lần sờ mó. TN: nếu ta nhớ không nhầm thì bài này từng được nhắc tới trong Lộc Đỉnh Ký =)))
Danh khúc kinh điển, đi kỹ viện sao có thể không nghe cái này. Đã sớm
muốn nghe, nghe cũng không tệ.
“Ắc…” Mộng Lộ ngây ngẩn cả người.
“Thập bát mạc là cái gì?” Tiêu bất điểm hiếu kỳ hướng tới.
Soái ca vẫn lạnh lùng như cũ, nhưng trong mắt mơ hồ có vài phần tiếu ý. Nghe tên cũng đủ biết được nội dung rồi.
“Xin công tử thứ tội, Mộng Lộ chưa nghe qua
“Ắc… quên đi.” Đây là thời không khác mà, sao lại quên mất chứ.
—
(1)[TN: sao giống giờ học mỹ thuật hồi cấp II quá =)) *chúng ta xem nữ chính sành tranh tới mức nào =))*'>:
+ Triệu Mạnh Phủ: Danh họa đời Nguyên, rạng danh trong làng nghệ thuật
hội họa bởi phong cách mạnh mẽ, sinh động. Chủ trương trong hội họa của
Triệu Mạnh Phủ bao gồm phong cách mộc mạc và phong cách “thư họa đồng
pháp”, tức là tranh vẽ như viết. Ông không đồng tình với phong cách hội
họa “màu sắc đậm, nét bút mảnh và tỉ mỉ” thời Tống. Ông ưa chuộng những
nét vẽ mạnh mẽ, đơn giản, trang nhã, cao thượng. Theo ông, như thế mới
thật sự là những tác phẩm đẹp. Đa số các tác phẩm của ông đều là mang
phong cách “thư họa đồng pháp”. Ông mượn những thủ bút trong thư pháp để thể hiện sự phong phú trong nghệ thuật vẽ tranh. (Tác phẩm tiêu biểu:
Phú Xuân sơn cư đồ (đang bán ở viện bảo tàng Chiết Giang, được gọi là
“trấn quán chi bảo”)
+ Đường Bá Hổ: Tranh thời trung niên của ông ảnh hưởng hoạ phong của Chu Thần khá rõ nét, mà Chu Thần lại ảnh hưởng hoạ
pháp của Lý Đường và Lưu Tùng Niên thời Nam Tống, cho nên tranh của
Đường Bá Hổ cũng thuộc hoạ phái hàn lâm với phong cách hùng kiện, chặt
chẽ, tinh tế, đồng thời ông cũng tham cứu bố cục và kỹ xảo bút mặc của
các đại gia Mã Viễn, Hạ Khuê; dung hợp và quán thông tinh hoa của các
danh hoạ Lý Thành, Phạm Khoan, Quách Hi (thời Bắc Tống) và Hoàng Công
Vọng, Vương Mông thời Nguyên, dần dần tạo ra phong cách riêng cho mình.
Tranh của Đường Bá Hổ có kết cấu chặt chẽ, tạo hình chân thực sinh động, thế núi hùng tuấn, thạch chất cứng cỏi, bút pháp cương kiện, sắc rõ mực đậm. tranh sơn thuỷ của Đường Bá Hổ đạt đến thành tựu thượng đẳng, bút
mặc tinh diệu cao thâm. (Một số tác phẩm: Thu phong hoàn phiến, Mặc mai, Phong trúc….)
+Dương Châu bát quái: “Dương châu bát quái” là một
nhóm thư họa có tinh thần sáng tạo họat động của Dương châu khoảng niên
hiệu Càn Long đời Thanh, là đại biểu chính của họa phái Dương châu. Về
phong cách sáng tác và thủ pháp biểu hiện đều có tính cách nhất định,
tác phẩm táo bạo dữ dội, đột phá ra ngoài sự trói buộc của hình thức,
không bắt chước cổ “mô phỏng cổ”, quan tâm hết sức với đời sống xã hội.
Cái đó so với họa phái cung đình học theo phép cổ, chiếm địa vị thống
trị trong giới họa đầu đời Thanh, có cái thế phản, sức phản nghịch rất
lớn. Nhân đó mà đương thời coi họ là “quái họa”. Trên thực tế, chính họ
đã dám phá vỡ hàng rào hình thức gò bó, lại có thể kế thừa, phát triển
truyền thống dung hợp thi, thư, ấn, họa vào một nghệ thuật “hội họa”,
xác lập được địa vị của họ trong lịch sử hội họa, được người đời sau coi là một họa phái phi thường. Danh hiệu “bát quái” sớm nhất thấy trong
“Aâu bát la thư họa quá mục khảo” thành sách năm Quang Tự thứ 23 đời
Thanh (1897), tác giả Lý Ngọc Phần kể “Bát quái” là Uông Sĩ Thận, Hoàng
Thận, Kim Nông, Cao Tường, Lý Thiện, Trịnh Biến, Lý Phương Ưng, La Sinh.
+Tề Bạch Thạch: Ông nổi tiếng là một danh họa Trung Quốc với các tác phẩm
màu nước linh động đầy sức sống.Ông còn có biệt hiệu là Tề Hoàng (齊璜) và Tề Vị Thanh (齐渭清). Đối tượng trong tranh vẽ của ông rất phong phú, từ
thú vật, cảnh vật, đồ vật, đồ chơi, rau quả, vân vân. Quan điểm hội họa
của Tề Bạch Thạch là “hội họa nằm giữa thực và ảo”. Những năm cuối đời,
đa số các tác