The Soda Pop
Mạnh Hơn Sợ Hãi

Mạnh Hơn Sợ Hãi

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 322391

Bình chọn: 9.00/10/239 lượt.

ược cô ấy. Vì tình trạng của cô gái lúc đó, họ đã đưa cô ấy ra khỏi vùng núi mà không để phí hoài giây phút nào. Nói tôi nghe, anh đang điều tra về chất lượng chăm sóc bệnh nhân của bệnh viện chúng tôi hay về số phận của cô gái đó?

- Theo ông thì sao?

- Trong trường hợp này, thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi còn cả một bệnh viện phải quản lý.

- Và có vẻ ông nhiều việc đấy!

Andrew không kịp nói lời cảm ơn Edgar Hardouin, ông bác sĩ vừa bất thình lình gác máy.

Đầu óc mải nghĩ tới cuộc nói chuyện, Andrew đi ngược xuống những bậc thang lớn của thư viện. Suzie, đang quan sát anh từ bậc trên cùng, nhìn anh đi xa dần về phía phố 42. Andrew đã trải qua một đêm tồi tệ. Bay phía trên bia mộ của mình ngắm nhìn xa lộ, lòng rối bời, cho đến tận khi Valérie tới thăm anh và khi rốt cuộc anh cũng choàng tỉnh, người vã mồ hôi, chẳng có gì thú vị.

Điều khiến anh bối rối, đó là anh đã thuộc lòng diễn biến cơn ác mộng đó, nhưng lần nào cũng để mặc lòng mình sửng sốt, khi anh nhìn thấy cô bước xuống từ chiếc break và tiến lại phía anh.

Tại sao cái đầu óc gàn dở của anh lại để mặc anh không nhận ra điều đó ngay, còn khi thức dậy anh lại bị ám ảnh bởi cái điều cô đã đến làm trên nấm mồ anh?

Lò xo dưới xô pha khiến anh đau lưng muốn chết và rốt cuộc anh phải thừa nhận rằng có lẽ đã đến lúc trở về nhà.

Khi cho Suzie Baker mượn phòng ngủ, anh đã hy vọng chuyến lưu lại ngắn ngày của cô sẽ làm đảo lộn ký ức về nơi đó, rằng mùi hương của cô sẽ thấm lại đó, đồng thời xóa hết một mùi hương khác. Có lẽ không thể nào diễn tả chính xác điều anh nghĩ trong đầu, nhưng nó đại khái là như vậy.

Anh nghe tiếng Simon ngáy đều đều phía bên kia tường phòng. Anh lặng lẽ đứng dậy và lấy một chai Fernet mà anh giấu trong một bình hoa. Cánh cửa tủ lạnh kêu cót két rõ thành tiếng, vậy nên anh từ bỏ việc lấy Coca, và tu từng ngụm lớn. Món đồ uống này có vẻ đắng hơn, nhưng chất cồn khiến anh thấy dễ chịu.

Anh tới ngồi trên thành cửa sổ và suy nghĩ. Có gì đó khiến anh bất an.

Cuốn sổ của anh đang nằm trên bàn làm việc của Simon. Anh mở hé cửa phòng và chờ cho mắt mình quen với bóng tối.

Simon nói mớ trong lúc ngủ. Andrew rón rén bước khẽ như mèo. Trong lúc tiến lại gần chiếc bàn, anh nghe tiếng cậu bạn lẩm bẩm rõ thành tiếng: “Anh sẽ mãi yêu em, Kathy Steinbeck”.

Và Andrew đành cắn chặt lưỡi để khỏi phì cười.

Anh mò mẫm tìm cuốn sổ, nhón lấy nó bằng đầu ngón tay rồi lại len lén đi ra hệt như lúc bước vào.

Trở lại phòng khách, anh chăm chú đọc lại các ghi chép của mình và rốt cuộc đã hiểu điều mà anh bỏ sót. Chiếc máy bay Suzie Baker đã nói với anh là chiếc nào và làm sao kiếm cho ra bản danh sách hành khách đi chuyến đó?

Biết là không thể ngủ lại được nữa, anh thay đồ, viết lời nhắn cho Simon và để nó trên bàn bếp rồi ra khỏi nhà.

Gió Đông Bắc đang thôi vào thành phố, cuốn theo trong từng luồng lạnh buốt những cuộn hơi nước thoát ra từ các miệng cống. Andrew dựng cổ áo lên và bắt đầu bước đi trong màn đêm giá buốt. Anh vẫy một chiếc taxi trên đường Hudson và xuống xe trước tòa soạn.

Cuộc họp chốt cho ấn bản đầu tiên của buổi sáng đã kết thúc từ lâu, để lại phòng biên tập trống trải. Andrew chìa thẻ của anh cho người gác đêm và lên tầng. Anh đang bước về phía bàn làm việc của mình thì nhìn thấy thẻ phóng viên của Freddy Olson, bị kẹt dưới bánh lăn của chiếc ghế xoay. Chắc là nó bị rơi ra từ túi quần sau. Andrew nhặt nó lên và thẻ ngay vào máy hủy tài liệu. Anh ấn nút và nhìn chiếc thẻ biến mất dần trong khe máy cùng tiếng lạo xạo của giấy rách khiến anh thấy vui tai. Rồi anh ngồi xuống trước màn hình máy tính.

Andrew nhanh chóng tìm được lại lịch của hai chiếc máy bay đã tan xác trên ngọn núi kia và sự trùng hợp của hai vụ tai nạn khiến anh đặt câu hỏi. Suzie đã tâm sự với anh là cô đi leo núi vào tháng Giêng, đúng một dịp kỷ niệm. Andrew viết vào sổ tay tên chiếc Kanchenjunga và điểm đến cuối cùng mà nó không bao giờ tới được. Rồi anh viết một thư yêu cầu theo đúng mẫu tới công ty hàng không để xin danh sách phi hành đoàn.

Lúc này là 5h sáng tại New York, 15h 30 phút tại New Delhi. Ít phút sau, anh nhận được phúc đáp với yêu cầu anh chuyển cho họ bản copy thẻ phóng viên và lý do cho lời thỉnh cầu, anh đã làm theo ngay lập tức. Andrew chờ trước màn hình máy tính, nhưng người liên lạc với anh hẳn đã đi xin chỉ thị từ cấp trên. Anh nhìn đồng hồ, do dự và rốt cuộc đã nhấc điện thoại lên.

Dolorès Salazar dường như không còn bất ngờ với chuyện bị dựng dậy khi trời còn chưa sáng vì một cuộc gọi từ Andrew.

- Filofax thế nào?

- Anh gọi điện cho tôi lúc 5h rưỡi sáng để hỏi tin tức về con mèo của tôi sao, Stilman? Tôi có thể làm gì cho anh? Dolorès Salazar trả lời, miệng ngáp ngắn ngáp dài.

- Cái việc cô làm giỏi hơn tất thảy mọi người.

- Anh trở lại làm việc rồi đấy à?

- Có thể, điều đó sẽ phụ thuộc vào thứ cô tìm thấy giúp tôi.

- Hãy bắt đầu luôn bằng việc nói cho tôi biết thứ anh đang tìm.

- Một danh sách hành khách.

- Tôi có một đầu mối ở Cục hàng không dân dụng, lúc nào tôi cũng có thể hỏi thử. Số hiệu chuyến bay và ngày khởi hành?

- Air