
hưa quyết định nổi. Dì
Lí hỏi thăm tôi, tôi đáp vẫn ổn. “Nhưng sắc mặt cậu không tốt đâu”, Sa vẫn kiên
trì.
“Có lẽ do đang mang thai thôi”, tôi chống đối. Hai
người bọn họ vì có quan hệ mật thiết với tôi nên đã biết tin này từ lâu. “Ừ
nhỉ”, Sa nói giọng đầy ngạc nhiên, “Mình hiểu rồi. Cậu mắc chứng “bệnh khiếp sợ
trước hôn nhân”.
“Đừng nói linh tinh được không? Lần trước cậu nói mình
bị “bệnh khác biệt giữa thành thị và nông thôn”. Bây giờ lại là “bệnh khiếp sợ
trước hôn nhân” gì đó. Không biết sau này cậu sẽ nói thêm gì nữa?”. Tôi nháy
mắt với Sa.
Dì Lí cười, giơ một bông hồng giả vừa làm xong cài lên
tóc Sa, hỏi: “Đúng rồi, khi chúng tôi được ăn kẹo của Sa đây?”. Tôi vỗ tay cười
lớn: “Đẹp lắm!”. Sa giơ hai tay tỏ y đầu hàng.
Tôi bước tới, lấy bông hồng trên tay dì Lí. Lúc này Lộ
Phong Thiền chạy tới vẫy đuôi rối rít, tôi cài một bông hồng lên đầu nó. Nó tò
mò quay đầu, ra sức định cắn thử bông hoa, nhưng không với tới, thoắt một cái,
nó chạy vào phòng tắm, trong đó có một tấm gương. Vừa nhìn thấy bóng mình trong
gương, nó lập tức há mõm, mắt trợn lên, im bặt, như không thể tin nổi hình dạng
kì quái của mình. Ba người phụ nữ trong phòng cười nghiêng ngả như đổ trời.
Cài hoa cho chó là chủ y của tôi. Tay nghề
làm hoa giả của dì Lí rất khéo. Giờ đây, hiệu quả thực tế còn đẹp hơn điều tôi
dự đoán. Trong hôn lễ ngày mai, Lộ Phong Thiền sẽ được trang điểm như vậy.
“Cô Ngụy, cô thực lòng yêu quí chó đến vậy. Nay mai
khi đứa bé ra đời, nhất định cô sẽ trở thành một người mẹ tốt”, dì Lí không
khỏi khen ngợi.
“Này, Vệ, mẹ cậu có tới dự đám cưới không?”, Sa đột
nhiên hỏi. Lúc này dì Lí cũng như nhớ ra điều gì: “Phải rồi, mẹ cô vẫn đang ở Austria chứ?”.
Tôi trầm ngâm hồi lâu, đáp: “Bà ấy đang ở Thượng Hải.
Hai người họ nhìn nhau, trong phòng thoắt yên tĩnh.
Khoảng sáu, bảy giờ, Triết về nhà. Dì Lí và Sa vẫn còn
ở đây. Tôi đề nghị cùng tới nhà hàng gần đây ăn tối.
Tới một nhà hàng Nhật. Giữa bữa ăn, tôi đi vào toalet.
Khi trở thành một bà bầu, tỉ lệ ra vào toalet cũng tăng hơn. Sau khi trở về,
tôi phát hiện thấy ba người họ đang chụm đầu bàn tán gì đó. Thấy tôi vào, họ
lập tức ngừng nói.
“Chuyện gì thế?”, tôi hỏi, nhưng trong lòng đã đoán
được vài phần.
Quả nhiên khi trở về nhà, Triết cẩn thận hỏi thăm về chuyện mẹ tôi. “Bà đang ở
Thượng Hải thật sao?”.
Với đề tài này, tôi vốn định kháng cự, nhưng lại không
muốn giấu diếm anh điều gì, đành đáp: “Vâng, bà đang ở Thượng Hải”.
Triết trầm ngâm rất lâu. Từ khi quen tôi ba năm về
trước, anh đã biết tôi có một bà mẹ sống tận Austria xa xôi.
Nhưng vì tôi không có quan hệ với mẹ, lại không bao giờ muốn nói về bà, nên dần
dần anh cũng quên mất chuyện này.
Sau khi chúng tôi quyết định ngày tổ chức hôn lễ, mời
bố mẹ anh tới Thượng Hải, anh cũng từng nhớ tới mẹ tôi và ám chỉ với tôi rằng
liệu có nên mời bà về tham dự đám cưới. Nhưng tôi mặc kệ, giả bộ không hiểu,
mọi chuyện lại dừng ở đó. Lúc nãy ở nhà hàng, dì Lí và Sa mới tiết lộ thông tin
mẹ tôi đã về Thượng Hải, nên anh quyết định thử thuyết phục tôi một lần nữa mời
mẹ đến dự hôn lễ.
“Không có mẹ, hơn mười năm qua, em vẫn sống tốt đó
thôi?”, giọng tôi lạnh lùng, “Vì thế đám cưới ngày mai cũng vậy, không cần tới
mẹ”. Vừa nhắc tới chuyện cũ hơn mười năm trước, nhớ tới bà đã từng vứt lại đứa
con gái mười bảy tuổi, chỉ để sang Austria lấy một
ông già máu lạnh, lòng tôi lại bị bóng tối phủ lên. Cho tới tận ngày nay, tôi
vẫn không tài nào lí giải nổi tại sao lúc đó bà lại làm vậy. Một người mẹ lẽ
nào nhẫn tâm bỏ con gái mình? Và giờ đây, bà phải li hôn, đó thực sự là một câu
chuyện ngu ngốc.
“Hơn mười năm qua, có thực là em không hề để tâm tới
mẹ không?”, Triết buông một câu rồi thở dài, đi vào phòng làm việc.
Tôi đi tới chiếc cửa sổ bằng kính dài xuống tận nền
trong phòng khách, ngắm nhìn đường phố và những kiến trúc rực ánh đèn. Dưới vẻ
bề ngoài phồn hoa của thành phố, lúc này phút này ắt có bao nhiêu chuyện vui
buồn, tan hợp đang diễn ra đây? Và mẹ tôi hiện đang ở một góc nào đó của thành
phố to lớn này. Bà vui hay buồn, sống hay chết, đều khó thể hiện trong biển
người mười bảy triệu dân của thành phố này. Nhưng điều đó có thấm tháp gì,
nhưng nó có một mối quan hệ không tài nào gỡ ra nổi với một số người. Và tôi là
một trong số đó, cũng phải là người quan trọng nhất. Vì tử cung của mẹ đã nuôi
dưỡng tôi.
Tôi cũng hiểu có một từ gọi là “tha thứ”. Mỗi ngày
qua, tôi đều nỗ lực nhìn về phía trước, nhìn về phía có ánh sáng và hi vọng.
Nhưng những chuyện này nói thì dễ, làm thì khó. Trái tim và cái đầu của con
người có lúc không thể thống nhất. Có chuyện nghĩ kĩ trong đầu nhưng trong lòng
chưa thông, vì trái tim còn quá tình cảm. Hơn mười năm qua, những gì liên quan
với mẹ vẫn chưa thể thuyết phục được phần tình cảm nhất trong tim tôi, cũng
chưa thể thuyết phục tôi chỉ sau một đêm có thể tha thứ cho bà và mời bà đến dự
lễ cưới của tôi.
Triết đi tới, ôm tôi vào lòng, âu yếm vuốt ve mái tóc
tôi, hồi lâu mới cất tiếng: “Vệ, anh tin rằng em sẽ có một quyết định