
ấy rất nhiều mảnh sành mảnh sứ và cả tiền
đồng thời Hán nữa. Căn cứ vị trí địa lý, thì nơi đây có lẽ là cửa ải Wulei (Ô
Lũy) thời Hán. Về sau, vào thời nhà Đường, ngay cạnh di chỉ này, phong hỏa dài
và thành lũy phòng thủ đã được xây dựng, chung quanh còn có đồn điền và các
trại lính, quy mô rất lớn. Công trình kiến trúc này vẫn tồn tại cho đến thế kỷ
XXI.
Tôi cứ
thế tất bật với công việc khảo sát suốt dọc đường đi. Ba ngày sau chúng tôi đã
đến được Khâu Từ.
Nhận ra
bức tường thành quen thuộc, tim tôi đập dữ dội, dường như cảm giác “về đến nhà”
đang trào dâng mạnh mẽ trong tôi. Không biết Rajiva có đang ở Khâu Từ không?
Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi? Có còn nhớ tôi không?
Chúng
tôi vào thành từ cổng phía đông, họ đòi kiểm tra giấy tờ, tôi tròn xoe mắt!
Đang nghĩ xem có nên viện cớ là người quen của quốc sư hay không thì người đàn
ông Ba Tư biết tiếng Tochari đã kịp nhét một túi nhỏ vào tay tên lính giữ
thành, thế là hắn vung tay ra hiệu cho phép cho chúng tôi qua.
Đây là
thành cổ Khâu Từ mà tôi từng thông thuộc ư? Từ phố lớn đến ngõ nhỏ chỗ nào cũng
được quét dọn sạch sẽ, tinh tươm. Dân chúng trong thành mặc những bộ trang phục
đẹp nhất, kéo về cổng thành phía tây, ai nấy đều náo nức như đi trẩy hội. Tôi
nhìn những người Ba Tư, họ nhún vai tỏ vẻ không hiểu. Đành phải chặn một người
đi đường lại để hỏi xem họ đang đi đâu. Người đó thấy tôi mặc trang phục của
người Hán, liền giải thích cho tôi biết hôm nay là ngày lễ rước tượng Phật
(ngôn ngữ Phật giáo gọi là “Hành tượng”), lát nữa sẽ có xe hoa chở tượng Phật
vào trong thành qua cửa phía tây, sau đó diễu hành qua khắp các đường phố để
mọi người được chiêm ngưỡng.
Ngày lễ
rước tượng Phật? Pháp Hiền và Huyền Trang từng viết rằng đây là lễ hội Phật
giáo náo nhiệt nhất được tổ chức tại Ấn Độ và các quốc gia Tây vực.
Thấy
tôi đang ngẩn ngơ suy nghĩ, người đó tưởng rằng người Hán không biết về ngày
hội này, nên đã giải thích rất nhiệt tình cho tôi. Sau khi Phật tổ nhập Niết
Bàn, Phật tử buồn vì không có duyên được thấy Phật, cho nên tổ chức ra ngày hội
rước tượng Phật vào ngày Phật Đản để mọi người được chiêm bái và cầu nguyện,
vào ngày này, những lời khẩn nguyện đặc biệt linh nghiệm. Nhưng ngày hội lớn
như thế này lại không được lưu truyền ở Trung Nguyên. Tôi thật may mắn vì tới
đây đúng lúc, không thể bỏ qua cơ hội được tận mắt chứng kiến ngày lễ Phật giáo
trọng đại này được. Tôi nói lời từ biệt với đoàn thương nhân Ba Tư, họ mang
theo bên mình bao nhiêu là hàng hóa, chắc chắn không thể đi cùng tôi. Người dẫn
đầu đoàn thương nhân ấy muốn biếu tôi một khoản tiền, nhưng tôi một mực từ
chối. Người đó bèn lấy ra một chuỗi hạt đeo tay bằng mã não trong suốt, lấp
lánh rất đẹp, đặt vào tay tôi, tôi đành nhận lấy.
Sau khi
chia tay đoàn người Ba Tư ấy, tôi hòa vào dòng người, đổ về cổng thành phía
tây. Một khán đài được dựng tạm trên cổng thành, những tấm vải bạt to rộng màu
vàng màu đỏ, được trang trí bằng vô số hoa tươi phủ lên trên. Khán giả trên khán
đài là những người ăn mặc cầu kỳ, sang trọng và nổi bật, tuy không nhìn rõ,
nhưng chắc chắn là hoàng tộc và quý tộc Khâu Từ. Tôi bị chen lấn, xô đẩy và dạt
ra tận ngoài cổng thành đến vài chục bước. Nhưng sau cùng cũng tìm được một
khoảng trống để đặt đủ hai chân, nhưng tôi chỉ có thể kiễng lên mà nhìn vào
phía trong. Thảm đỏ được trải dài trăm mét, chạy thẳng đến cổng chính phía tây.
Lúc này, biển người đột nhiên di động, tôi đưa mắt nhìn theo ra ngoài cổng
thành, vẫn trong tư thế kiễng chân, tôi thấy hai chiếc xe bốn bánh khổ lớn,
giống hệt nhau, cao khoảng bốn, năm mét, trang trí lộng lẫy, nguy nga như một
cung điện nhỏ, phủ lên trên một tấm phông màu vàng. Tôi từng nhìn thấy những cỗ
xe rước tượng Phật như vậy ở quảng trường lớn trước đây, cạnh tượng Phật tổ còn
có hai bức tượng Bồ Tát khổ nhỏ nữa. Tượng Phật được đúc bằng vàng, trên mình
khoác áo cà sa màu vàng với những họa tiết phức tạp và đeo đủ loại trang sức
vàng bạc, châu báu.
Những
cỗ xe chầm chậm tiến vào cổng thành phía tây, rồi dừng lại trước thảm đỏ. Đức
vua Khâu Từ từ khán đài bước xuống, tháo vương miện, cởi giày, chân trần bước
trên thảm đỏ, hai tay nâng cao quá đầu một nén nhang dài, cung kính hướng về
phía tượng Phật. Đức vua nom đã luống tuổi, thân thể nặng nề hơn xưa. Bỗng, tôi
như bị thôi miên, người đang đứng trang nghiêm phía sau Bạch Thuần ấy, người
khoác áo cà sa dát kim tuyến, khí khái bất phàm ấy chính là Rajiva, đúng rồi,
là cậu ấy!
Giống
như trong phim, mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo, âm thành ồn ào huyên náo biến
mất, trước mắt tôi chỉ có hình ảnh Rajiva là sống động và duy nhất.
Cậu ấy
đã trưởng thành, tuổi chừng hơn hai mươi, đẹp như một bức tượng điêu khắc Hy
Lạp với sống mũi cao vời vợi, đôi mắt sáng mênh mông, hàng lông mày dài mượt và
dày đậm, đôi đồng tử màu xám nhạt khi nhìn lên, tưởng chừng có thể thấu suốt
mọi thứ trên thế gian này. Làn môi mỏng khép chặt, đường môi sống động như vẽ
ấy, thật dễ làm say lòng người. Cậu ta trông rất cao, chắc chắn hơn một mé