
ộng bật khóc nức nở. Mẹ con Jiva mắt đỏ
hoe, họ đang cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến một người trong đám
quý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn những người Khâu Từ
khác.
Đó là
một người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất cao, thân
hình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt to sâu trũng
in giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái toát lên vẻ thông
thái và nhân hậu. Ông không thả tóc ngang vai như người Khâu Từ, mái tóc ông
cắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở hiện đại nhưng đã lốm đốm sợi bạc. Dù
ông đang mặc trên mình trang phục của người Khâu Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận ra
ông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ “đẹp trai” để miêu tả về ông thì
thiệt thòi cho ông quá! Điều đáng nói ở đây là khí chất thoát tục ở ông, đó là
thứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt giữa hàng trăm con người,
khiến người khác phải chú ý và khi đã chú ý đến ông rồi thì khó mà dứt được ánh
nhìn để chuyển hướng đi chỗ khác.
Ông dắt
theo một cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da trắng ngần giống
người Khâu Từ và những đường nét trên khuôn mặt thì giống hệt Rajiva, nhưng dễ
thương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy đang bận ngó nghiêng khắp nơi, khi
thấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm chú nhìn tôi mãi. Tôi cười với
cậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu bé giật mình, vội vã quay mặt
đi.
Không
nghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana, người đã từng từ
bỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở phía đông để đến
đất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư, là cha của Kumarajiva
và là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy làm chồng. Cậu bé có khuôn
mặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em trai của cậu, tôi không nhớ tên
cậu bé là gì. Trong “Truyện cao tăng”, Tuệ Giảo chỉ ghi lại một cái tên, tức là
trong sự phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn tại vì là em trai của
Kumarajiva.
Hoàng
hậu đã ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana, Jiva chắp tay hành
lễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn ngập đầy trong đôi
mắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn ôm bà vào lòng, nhưng ông
chỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ. Chú bé tinh nghịch không
cần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm lấy mẹ kêu khóc thảm
thiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan chứa. Rajiva quỳ lạy cha,
nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ đều rất xúc động, họ trò
chuyện với nhau bằng tiếng Phạn.
Nghi lễ
đón tiếp đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép đức vua được đưa
vợ con về phủ, Jiva không phản đối, có lẽ vì bà cũng rất nhớ con. Thế là tôi
cùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.
Tôi đã
tìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng Phạn, vậy
là lại có thêm một cái tên khó đọc nữa.
Jiva và
Rajiva chỉ ở lại nhà ba ngày, rồi chuyển đến chùa Vương Tân (chùa Tsioli). Đó
là ngôi chùa của hoàng gia, tọa lạc trên khu đất phía Tây hoàng cung, cách phủ
quốc sư chừng mười lăm phút đi bộ. Trước khi chuyển đi, Rajiva đã sắp xếp chu
đáo mọi việc: Vì tôi là cô giáo của cậu nên vẫn được ở lại trong phủ. Hàng ngày
cậu sẽ về nhà sau giờ tụng kinh buổi chiều để học bài.
Kế
hoạch đến Trung Nguyên phải hoãn lại, vì hiện nay đang là mùa đông, tuyết rơi
dày đặc, đóng băng trên mọi ngả đường, các đội lái buôn đã tạm dừng hành trình.
Nếu muốn đi, phải chờ đến mùa xuân năm sau. Vả lại, tôi cũng không vội vàng gì.
Vừa mới chân ướt chân ráo đến Khâu Từ, tôi còn chưa bắt đầu công việc khảo sát
của mình, mà tiếng Tochari tôi cũng chưa học ra ngô ra khoai gì cả. Có người
chịu cấp cho tôi nơi ăn chốn ở tử tế, không có lý gì tôi lại từ chối công việc
dạy học này.
Chủ
nhà, Kumarayana hiếu khách và rất đôn hậu, lúc nào ông cũng ân cần, chu đáo với
tôi. Ông nho nhã, lịch thiệp giống hệt giáo sư ở các trường đại học vậy. Giá
như trường tôi có một giảng viên như ông, chắc chắn toàn thể học sinh nữ của
trường sẽ đua nhau đăng ký môn ông giảng dạy, lớp học sẽ không có chỗ ngồi,
thậm chí, hành lang cũng chật cứng ấy chứ. Nếu ông dạy tiếng Phạn, thầy Quý sẽ
không còn phải rầu rĩ than phiền vì không có sinh viên nào chịu theo học ngôn
ngữ này nữa. Kumarayana hoàn toàn tin tưởng ở tôi, ông không bao giờ gặng hỏi
tôi về phương pháp lên lớp. Và sau khi nghe Rajiva tán dương tôi, ông còn đề
nghị tôi tiếp nhận thêm một học sinh nữa.
Tôi đã
kịp dạo quanh mấy vòng thành cổ Khâu Từ. Quốc gia này có ba tòa thành quách
rộng lớn, được canh phòng nghiêm ngặt. Chính giữa là cung điện nguy nga tráng
lệ. Diện tích tòa thành lớn gấp năm, sáu lần tòa thành Wensu mà tôi từng khảo
sát. Tín ngưỡng Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt ở nơi đây. Đến đâu cũng bắt
gặp đền chùa, miếu mạo hoặc to hoặc nhỏ được xây lên với mật độ dày đặc.
Khâu Từ
dựa lưng vào núi Thiên Sơn ở phía bắc, được xem là quốc gia có nguồn nước dồi
dào nhất Tâ