
ợc một tấm lại nghĩ đến mười tấm. Được mười tấm lại
mong được một trăm tấm. Gom được 100 tấm bèn vội vội vàng vàng đem gửi vào kho
công ở Diên Châu. Cứ thế Bảo An như bị ma ám, quên cả vợ con, ngày tính toán,
đêm mộng mị, chỉ toàn là nghĩ đến chuyện Quách Trọng Tường. Gắng công gắng sức
như vậy nhưng thời buổi bất yên, nên vất vả mười năm trời mà chỉ gom được 700
tấm lụa.
Mười
năm trôi qua, đứa con trai đã mười một tuổi. Trương Thị thương nhớ chồng, trong
lòng buồn khổ. Lại do thiếu ăn thiếu mặc tuổi nên tuy chưa nhiều mà người đã
rất tiều tụy.
Một
hôm, Trương Thị nghĩ bụng con trai mình đã lớn, nhà không có tiền mời thầy cho
nó học, bèn quyết định đem bán mấy thứ đồ nát còn lại làm tiền lộ phí, mấy ngày
sau đem con đến Diên Châu tìm chồng.
Hai
mẹ con giãi gió dầm sương suốt dọc đường, nếm đủ mọi gian khổ. Đã vậy, số tiền
lộ phí lại tiêu hết. Lo lắng quá, Trương Thị đành xin ăn để đi tiếp. Có mấy lần
nàng toan tự tử cho chết đi, song lại không nỡ bỏ lại đứa con bé bỏng. Rồi một
hôm, thật sự không chịu nổi, nàng ngồi xuống bên đường mà thảm thiết khóc lóc.
Tiếng
khóc đã làm động lòng một vị quan đi qua nơi đây. Vị quan này là Dương An Cư,
mới tới nhậm chức đô đốc ở Diên Châu. Nghe Trương Thị kể chuyện Ngô Bảo An bán
nhà chuộc bạn, Dương đô đốc vô cùng cảm động.Thế là sai người đưa dẫn mẹ con
Trương Thị, còn mình lập tức đến Diên Châu để giúp tìm tin tức Bảo An.
Mấy
ngày sau, đô đốc tìm được Bảo An. Ông nói: “Thường nghe người ta nói: Cổ nhân
có tình bạn sống chết với nhau, giờ gặp chuyện của ông mới tin là điều có thật!
Nay vợ con ông cũng đã tới đây, hãy mau về gặp họ đi. Số lụa còn thiếu, ta sẽ
giúp ông lo liệu”.
Bảo
An nghe rồi lập tức quỳ xuống rập đầu nói: “Đô đốc nghĩa cao như vậy, tôi không
dám chối từ. Song xin đô đốc hãy giao số lụa cho tôi để tôi đi chuộc Trọng
Tường đã kẻo muộn mất, rồi sẽ gặp vợ con sau”.
Thấy
chàng ta cương quyết như vậy, Dương đô đốc chỉ đành sai tập trung số lụa lại để
chàng ta lên đường.
Bảo
An vội vã đến Ô-lô, chuộc được Trọng Tường về. Hai người bạn được gặp mặt, ngắm
nghía nhau một lát rồi ôm chầm lấy nhau òa khóc.
Đợi
công việc của Trọng Tường xong xuôi, Bảo An mới về gặp vợ con. Nhìn thấy con
trai mình đã thành một thanh niên, cảm thấy thật ngỡ ngàng. Còn vợ mình vì mình
thì cũng đã già đi. Thế mới biết mười năm đằng đẵng không khỏi tủi buồn. Song
lại nghĩ Trọng Tường đã được trở về, nhà mình cũng đoàn viên, lòng lại thấy vui
mừng khôn xiết.
Dương
Đô đốc thấy Trọng Tường và Bảo An tình nghĩa như vậy thì rất cảm động, bèn tiến
cử hai người đều được làm quan. Tuy hai người bạn mới gặp nhau chưa lâu, song
cũng không thể không chia tay từ biệt.
Sau,
vợ chồng Bảo An đều mất sớm, Trọng Tường thân chinh mang tro cốt của hai người
đi hàng ngàn dặm đường mà không biết mệt, lại cùng con trai Bảo An coi mộ suốt
ba năm. Rồi Trọng Tường lại tâu xin nhà vua để nhường chức quan của mình cho
con Bảo An tên là Thiên Hựu. Nhà vua cảm động trước tình cảm của họ bèn phong
cho họ đều làm huyện úy ở hai huyện liền kề nhau.
Ở
vùng Bình Vọng huyện Ngô Giang tỉnh Tô Châu có một chàng tú tài tên gọi
Tiền Thanh. Chàng ta là người tài hoa, làu thuộc Thi, Thư, thông kim bác cổ.
Tội nghiệp thay, cha mẹ mất sớm, gia nghiệp suy vi, chàng đành tới sống nhờ nhà
người anh họ.
Anh
họ tên là Nhan Tuấn, tự Bá Nhã, cùng tuổi với Tiền Thanh, đều mười tám. Nhan
Tuấn ỷ nhà giàu có, chỉ muốn chọn một tuyệt thế giai nhân về làm vợ. Nhưng anh
chàng này người xấu, lại ra vẻ phong nhã, thích chuyện chải chuốt. Tiền Thanh
tuy không giống anh ta, song phải ở nhà anh ta để học, cho nên việc gì cũng
phải làm theo anh ta. Nhan Tuấn thấy vậy thích lắm, có gì cũng bàn với Tiền
Thanh cả.
Một
hôm, có người bà con xa là Vưu Thần đến nhà họ Nhan, nói rằng ở mé núi tây Thái
hồ có người tên gọi Cao Tán, ông này có cô con gái năm nay mười sáu tuổi, cầm,
kỳ, thi, họa đều giỏi, mà lại rất xinh đẹp, hiện đang kén rể. Lại nói rằng chỉ
cần được người phong lưu tốt lành là sẽ gả con và còn cho thêm tiền nữa. Nhan
Tuấn nghĩ thầm lần này có cơ hội rồi, bèn bám riết lấy Vưu Thần xin mai mốt
cho. Vưu Thần biết rõ người ngợm như Nhan Tuấn ông Cao Tán chẳng khi nào bằng
lòng nên lần nào cũng từ chối. Nhưng rồi không chịu nổi sự thôi thúc năm lần
bảy lượt của Nhan Tuấn, ông ta đành miễn cưỡng đồng ý.
Ngày
hôm sau, Vưu Thần cùng tên gia đồng của Nhan Tuấn đi một chiếc thuyền nhẹ hai
mái chèo, nhân lúc trời yên gió lặng, giong thẳng đến nhà họ Cao ở núi tây.
Cao
Tán nghe nói họ đến cầu thân thì vội vàng mời vào: “Xin hỏi là công tử của nhà
ai đấy ạ?”. “Đó là một công tử trong huyện này, sản nghiệp giàu có, rất xứng
với hộ nhà cụ. Công tử này mới mười tám tuổi, thông thuộc các loại sách Thi,
Thư”.
“Nhân
phẩm thế nào? Tôi đã nói trước rồi đấy, nhất định phải thấy tận mặt thì mới có
thể chấp nhận được”.
“Về
nhân phẩm thì khỏi phải nói. Công tử nhà tôi vẻ người tài hoa. Năm mười bốn
tuổi, đi thi Đồng sinh được loại nhất. Tôi không phải là người làm mai, chỉ l