Polaroid
Độc Chiếm Hoa Khôi

Độc Chiếm Hoa Khôi

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 323743

Bình chọn: 9.00/10/374 lượt.

y là phần cho cậu con nhỏ”. Thiện Kế không tin nói: “Nếu quả có

thật thì dù có vạn lượng cũng là của chú em, tiểu nhân tuyệt không tranh chấp”.

Quan

nói: “Anh có muốn tranh ta cũng không cho!” Bèn sai người đào dưới bức tường

phía đông, quả nhiên thấy có năm cái hũ lớn, hũ nào cũng đầy bạc trắng lóa. Mọi

người nhìn thấy đều hết sức kinh ngạc.

Quan

họ Đằng lại nói với Mai Thị: “Dưới bức tường bên phải còn có năm hũ bạc nữa,

cũng năm ngàn lượng, lại còn một hũ vàng lớn, vừa rồi tiên sinh có bảo là để

thù lao cho ta, ta không dám nhận, song cụ cứ ép mãi, ta đành phải vâng theo”.

Mai

Thị và Thiện Thuật rập đầu nói: “Năm ngàn lượng đào được ở tường bên trái cũng

đủ lắm rồi ạ. Nếu như tường bên phải cũng hãy còn thì đâu dám trái lệnh lão gia

chúng tôi”.

Quan

họ Đằng lại sai đào bên tường phía phải quả nhiên thấy sáu cái hũ lớn, năm hũ

đựng bạc, một hũ đựng vàng.

Thiện

Kế nhìn thấy nhiều vàng bạc như vậy, mắt đầy tức tối, uất hận vì không thể xông

tới mà cướp lấy được. Quan họ Đằng viết một tờ chứng, giao cho Thiện Thuật. Hai

mẹ con Mai Thị rập đầu bái tạ. Thiện Kế căm lắm, song cũng chỉ đành rập đầu mấy

cái, miệng miễn cưỡng nói: “Đa tạ đại nhân”.

Quan

họ Đằng bèn lấy hũ vàng đặt vào kiệu sai khiêng về phủ để mình hưởng.

Mẹ

con Mai Thị sau khi có được mười hũ bạc đó, mua ruộng vườn làm lụng, chẳng mấy

chốc trở nên giàu có. Sau Thiện Thuật lấy vợ, đẻ liền ba cậu con trai, khi lớn

đều học tập thành danh.

Bán nhà chuộc bạn (Tam ngôn)

Thời

Khai nguyên đời Đường, quan Tể tướng Quách Chấn có người cháu tên gọi

Trọng Tường, là một chàng trai võ nghệ cao cường, vừa dũng cảm vừa mưu lược.

Năm

ấy, phương Nam có loạn, Quách Chấn liền sai cháu đi theo đô đốc Lý

Mông để phá địch lập công.

Bấy

giờ, người đồng hương của Trọng Tường là Ngô Bảo An nghe tin bèn viết thư cho

Trọng Tường muốn được đi cùng để phục vụ.

Được

thư, Trọng Tường rất cảm động, vỗ án nói: “Ta mà không lo được tốt cho anh Ngô

thì chẳng đáng là kẻ trượng phu!” Thế là tìm cách lo ngay cho Bảo An làm chức

Quản ký trong quân ngũ.

Ngô

Bảo An nhận được giấy báo, biết rằng đây là do Trọng Tường tiến cử nên rất vui

mừng. Sắp xếp cho vợ và đứa con trai mới chưa đầy hai tuổi xong xuôi, lập tức

đi suốt ngày đêm để tới Diên Châu. Nào hay, trời nổi mây gió bất ngờ, Bảo An

đến được Diên Châu thì nghe tin quân của Lý đô đốc đã bị bại trận, Quách Trọng

Tường sống chết thế nào thì chưa rõ. Thế là Bảo An ở lại, đi khắp nơi hỏi thăm

tin tức của Trọng Tường.

Thì

ra, Lý đô đốc dẫn quân đánh địch, không may bị rơi vào vòng vây, đô đốc tử

trận, Trọng Tường cùng một số người bị bắt làm tù binh. Quân địch ham của, nói

sẽ cho chuộc bọn tù binh này bằng tiền, có điều đặt giá rất cao. Khi đó, Quách

Trọng Tường ở trong tay bộ tộc Ô-lô. Vì là cháu của Tể tướng nên có thể được chuộc

bằng một ngàn tấm lụa. Chàng bèn tìm cách chuyển thư tới ông bác. Nghĩ tới nghĩ

lui, thấy chỉ có Ngô Bảo An có thể hiểu mình, bèn viết một lá thư, khẩn thiết

nói: “Biết bạn là người rất trọng nghĩa, nên xin nhờ bạn nhắn tin cho bá phụ

tôi, xin người giải cứu cho tôi”.

Bảo

An đang lo lắng tìm kiếm Trọng Tường, nhận được thư, mừng khôn xiết kể, lập tức

đi ngay. Đường đi qua nhà, tuy rất muốn ghé thăm vợ con một chút, song vì sợ

cấp bách không dám dừng chân. Từ Diên Châu tới Trường An ba nghìn dặm đường, Bảo

An ruổi ngựa không ngừng, dầm sương dãi gió, trải bao khổ cực mới đến được kinh

đô. Ngờ đâu khi đó Tể tướng Quách Tấn đã qua đời, cả nhà lớn bé già trẻ đều dọn

về quê tất cả.

Bảo

An chưng hửng, không biết làm sao. Lúc này chàng ta đã tiêu hết cả tiền, chẳng

còn lấy một xu, chỉ đành bán con ngựa để quay về nhà đã, rồi sẽ tính sau.

Về

đến nhà, vừa nhìn thấy vợ, chàng không ghìm được òa lên khóc rồi kể rõ sự tình

cho Trương Thị nghe. Kể xong lại nói: “Mình muốn đi chuộc ông ấy, nhưng nhà

mình quá nghèo, sao có gì mà chuộc, giờ làm sao đây?”

Trương

Thị an ủi nói: “Tục ngữ có câu: Không gạo thì khéo mấy cũng chẳng nấu được cơm,

chàng đã tận sức tận lực rồi, thôi thì đành nhờ trời mà thôi”.

Nghe

nói vậy, Bảo An chỉ lắc đầu: “Hồi đó mình chỉ là đánh liều viết lá thư cho ông

ấy, thế mà ông ấy đã hết sức đề bạt cho mình, nay ông ấy đem tính mạng phó thác

cho mình, sao mình nhẫn tâm bỏ ông ấy được!”

Rồi

thề rằng nếu không cứu được Trọng Tường về sẽ không sống tiếp nữa.

Sau

đó, để có tiền chuộc người bạn chưa hề gặp mặt, Bảo An bắt đầu bán gia sản, bán

cho hết sạch chỉ còn bốn vách nhà trống mà mới chỉ được 200 tấm lụa. Nhìn đống

lụa chàng rơi nước mắt bảo vợ: “Chẳng phải tôi không thương mình và con, nhưng

làm người phải lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ tôi đành phải xa vợ con ra ngoài

buôn bán thôi”. Nói rồi xếp chỗ lụa đem đi, để người vợ cô đơn và đứa trẻ nhỏ

dại ở lại.

Từ

đấy, cứ sáng sớm ra đi tới tối mịt mới về, bôn ba khắp nơi, chẳng nề vất vả.

Trên đường buôn bán, chàng ta học được cách tranh cạnh với người từng hào từng

xu. Ngày ngày, chàng ta chỉ ăn cơm gạo xấu mặc áo cũ rách, được đồng nào đều

tích góp để mua lụa. Mua đư