
y là phần cho cậu con nhỏ”. Thiện Kế không tin nói: “Nếu quả có
thật thì dù có vạn lượng cũng là của chú em, tiểu nhân tuyệt không tranh chấp”.
Quan
nói: “Anh có muốn tranh ta cũng không cho!” Bèn sai người đào dưới bức tường
phía đông, quả nhiên thấy có năm cái hũ lớn, hũ nào cũng đầy bạc trắng lóa. Mọi
người nhìn thấy đều hết sức kinh ngạc.
Quan
họ Đằng lại nói với Mai Thị: “Dưới bức tường bên phải còn có năm hũ bạc nữa,
cũng năm ngàn lượng, lại còn một hũ vàng lớn, vừa rồi tiên sinh có bảo là để
thù lao cho ta, ta không dám nhận, song cụ cứ ép mãi, ta đành phải vâng theo”.
Mai
Thị và Thiện Thuật rập đầu nói: “Năm ngàn lượng đào được ở tường bên trái cũng
đủ lắm rồi ạ. Nếu như tường bên phải cũng hãy còn thì đâu dám trái lệnh lão gia
chúng tôi”.
Quan
họ Đằng lại sai đào bên tường phía phải quả nhiên thấy sáu cái hũ lớn, năm hũ
đựng bạc, một hũ đựng vàng.
Thiện
Kế nhìn thấy nhiều vàng bạc như vậy, mắt đầy tức tối, uất hận vì không thể xông
tới mà cướp lấy được. Quan họ Đằng viết một tờ chứng, giao cho Thiện Thuật. Hai
mẹ con Mai Thị rập đầu bái tạ. Thiện Kế căm lắm, song cũng chỉ đành rập đầu mấy
cái, miệng miễn cưỡng nói: “Đa tạ đại nhân”.
Quan
họ Đằng bèn lấy hũ vàng đặt vào kiệu sai khiêng về phủ để mình hưởng.
Mẹ
con Mai Thị sau khi có được mười hũ bạc đó, mua ruộng vườn làm lụng, chẳng mấy
chốc trở nên giàu có. Sau Thiện Thuật lấy vợ, đẻ liền ba cậu con trai, khi lớn
đều học tập thành danh.
Bán nhà chuộc bạn (Tam ngôn)
Thời
Khai nguyên đời Đường, quan Tể tướng Quách Chấn có người cháu tên gọi
Trọng Tường, là một chàng trai võ nghệ cao cường, vừa dũng cảm vừa mưu lược.
Năm
ấy, phương Nam có loạn, Quách Chấn liền sai cháu đi theo đô đốc Lý
Mông để phá địch lập công.
Bấy
giờ, người đồng hương của Trọng Tường là Ngô Bảo An nghe tin bèn viết thư cho
Trọng Tường muốn được đi cùng để phục vụ.
Được
thư, Trọng Tường rất cảm động, vỗ án nói: “Ta mà không lo được tốt cho anh Ngô
thì chẳng đáng là kẻ trượng phu!” Thế là tìm cách lo ngay cho Bảo An làm chức
Quản ký trong quân ngũ.
Ngô
Bảo An nhận được giấy báo, biết rằng đây là do Trọng Tường tiến cử nên rất vui
mừng. Sắp xếp cho vợ và đứa con trai mới chưa đầy hai tuổi xong xuôi, lập tức
đi suốt ngày đêm để tới Diên Châu. Nào hay, trời nổi mây gió bất ngờ, Bảo An
đến được Diên Châu thì nghe tin quân của Lý đô đốc đã bị bại trận, Quách Trọng
Tường sống chết thế nào thì chưa rõ. Thế là Bảo An ở lại, đi khắp nơi hỏi thăm
tin tức của Trọng Tường.
Thì
ra, Lý đô đốc dẫn quân đánh địch, không may bị rơi vào vòng vây, đô đốc tử
trận, Trọng Tường cùng một số người bị bắt làm tù binh. Quân địch ham của, nói
sẽ cho chuộc bọn tù binh này bằng tiền, có điều đặt giá rất cao. Khi đó, Quách
Trọng Tường ở trong tay bộ tộc Ô-lô. Vì là cháu của Tể tướng nên có thể được chuộc
bằng một ngàn tấm lụa. Chàng bèn tìm cách chuyển thư tới ông bác. Nghĩ tới nghĩ
lui, thấy chỉ có Ngô Bảo An có thể hiểu mình, bèn viết một lá thư, khẩn thiết
nói: “Biết bạn là người rất trọng nghĩa, nên xin nhờ bạn nhắn tin cho bá phụ
tôi, xin người giải cứu cho tôi”.
Bảo
An đang lo lắng tìm kiếm Trọng Tường, nhận được thư, mừng khôn xiết kể, lập tức
đi ngay. Đường đi qua nhà, tuy rất muốn ghé thăm vợ con một chút, song vì sợ
cấp bách không dám dừng chân. Từ Diên Châu tới Trường An ba nghìn dặm đường, Bảo
An ruổi ngựa không ngừng, dầm sương dãi gió, trải bao khổ cực mới đến được kinh
đô. Ngờ đâu khi đó Tể tướng Quách Tấn đã qua đời, cả nhà lớn bé già trẻ đều dọn
về quê tất cả.
Bảo
An chưng hửng, không biết làm sao. Lúc này chàng ta đã tiêu hết cả tiền, chẳng
còn lấy một xu, chỉ đành bán con ngựa để quay về nhà đã, rồi sẽ tính sau.
Về
đến nhà, vừa nhìn thấy vợ, chàng không ghìm được òa lên khóc rồi kể rõ sự tình
cho Trương Thị nghe. Kể xong lại nói: “Mình muốn đi chuộc ông ấy, nhưng nhà
mình quá nghèo, sao có gì mà chuộc, giờ làm sao đây?”
Trương
Thị an ủi nói: “Tục ngữ có câu: Không gạo thì khéo mấy cũng chẳng nấu được cơm,
chàng đã tận sức tận lực rồi, thôi thì đành nhờ trời mà thôi”.
Nghe
nói vậy, Bảo An chỉ lắc đầu: “Hồi đó mình chỉ là đánh liều viết lá thư cho ông
ấy, thế mà ông ấy đã hết sức đề bạt cho mình, nay ông ấy đem tính mạng phó thác
cho mình, sao mình nhẫn tâm bỏ ông ấy được!”
Rồi
thề rằng nếu không cứu được Trọng Tường về sẽ không sống tiếp nữa.
Sau
đó, để có tiền chuộc người bạn chưa hề gặp mặt, Bảo An bắt đầu bán gia sản, bán
cho hết sạch chỉ còn bốn vách nhà trống mà mới chỉ được 200 tấm lụa. Nhìn đống
lụa chàng rơi nước mắt bảo vợ: “Chẳng phải tôi không thương mình và con, nhưng
làm người phải lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ tôi đành phải xa vợ con ra ngoài
buôn bán thôi”. Nói rồi xếp chỗ lụa đem đi, để người vợ cô đơn và đứa trẻ nhỏ
dại ở lại.
Từ
đấy, cứ sáng sớm ra đi tới tối mịt mới về, bôn ba khắp nơi, chẳng nề vất vả.
Trên đường buôn bán, chàng ta học được cách tranh cạnh với người từng hào từng
xu. Ngày ngày, chàng ta chỉ ăn cơm gạo xấu mặc áo cũ rách, được đồng nào đều
tích góp để mua lụa. Mua đư