
ùng người nhỏ, bởi vậy mới cử tôi sang đây”.
Sở
vương nhìn khắp bọn đại thần bề tôi, thấy đều im thin thít, chỉ đành mời Án Anh
lên điện ngồi. Thị thần dâng rượu, Án Anh điềm nhiên vui vẻ uống, không để ý gì
cả.
Một
lúc sau, thị vệ giải một người tới trước điện. Án Anh nhìn ra, chính là một tên
tùy tùng mình mang từ nước Tề sang, bèn hỏi y phạm tội gì, thị vệ nói: “Hắn ăn
cắp bộ đồ uống rượu định trốn đi nhưng bị bắt quả tang”. Kẻ kia kêu oan. Án Anh
nói: “Người và tang vật rõ ràng, còn dám chống chế à? Hãy mau lôi ra chém đầu
cho ta!” Sở vương hỏi: “Thừa tướng từ xa tới, sao không đem theo những người
thành thật? Nay kẻ tùy tùng này làm bậy như vậy, chẳng làm nhục cho chủ nhân
sao?” Án Anh nói: “Tên này từ nhỏ đã theo tôi, tôi biết rõ nó. Nó ở nước Tề là
người quân tử, khi sang nước Sở lại thành kẻ tiểu nhân, đó là phong tục biến
hóa mà thành ra vậy. Tôi nghe nói cây quýt trồng ở Giang Nam cho quả
vừa ngon vừa ngọt, nhưng khi đem sang trồng ở phía bắc thì lại biến thành vừa
chua vừa đắng. Đó cũng là do phong tục bất đồng vậy. Cho nên tên này ở nước Tề
thì không ăn cắp, khi sang nước Sở lại ăn cắp, cũng chẳng có gì là lạ!”
Vua
Sở kinh hãi, vội dời chỗ ngồi, bước tới chắp tay nói với Án Anh: “Các hạ thật
đúng là bậc hiền sĩ! Xin dạy bảo cho!”
Án
Anh bèn khuyên Sở vương nên thân chinh sang nước Tề giảng hòa. Sở vương nói:
“Quả nhân tình nguyện giảng hòa song còn e bọn Điền Khai Cương, ba người đó của
nước Tề không trọng tín nghĩa, vì vậy không dám sang”. Án Anh nói: “Xin đại
vương yên tâm, thần xin bảo vệ cho ngài, sẽ có một kế nhỏ khiến bọn đó phải
chết trước mặt ngài”.
Sở
vương nói: “Nếu như bọn đó chết, ta sẽ tôn nước Tề làm thượng quốc, hàng năm sẽ
triều kiến và tiến cống”.
Thế
rồi lập tức mở tiệc khoản đãi Án Anh, lại chuẩn bị các lễ vật để dâng biếu.
Án
Anh sai người về nước báo tin trước rồi ra về. Tề Cảnh Công hết sức vui mừng,
lệnh cho tất cả các quan công khanh lớn nhỏ đều phải đi theo ra cổng thành
nghênh đón thừa tướng. Án Anh vừa về đến nơi, Cảnh Công tự bước xuống kiệu thăm
hỏi, sau đó cùng ngồi kiệu về. Người nước Tề đến xem đông chật đường đi. Bọn ba
người Điền Khai Cương nghe nói, vô cùng tức tối.
Mấy
ngày sau, Án Anh vào triều, thấy ba người đó ở trước điện, liền bước lên thi
lễ. Bọn này giả bộ không nhìn thấy, không hề ngoảnh đầu. Án Anh cứ đứng vậy một
lúc rồi mới bước đi. Khi gặp Cảnh Công, ông nói rõ điều vô lý đó của họ. Cảnh
Công nói: “Ba tên này luôn luôn mang kiếm lên điện, xem ta như trẻ con, sau này
nhất định chúng sẽ thoán vị. Ta vẫn muốn trừ bỏ chúng song không làm sao được”.
Án
Anh nói: “Xin Chúa thượng yên tâm. Đợi khi nào vua tôi nước Sở sang đây, ta sẽ
bày tiệc lớn, bấy giờ thần sẽ có một kế nhỏ để chúng phải tự sát hết, như thế
được chăng?”
Cảnh
Công hỏi: “Kế như thế nào?”
Án
Anh nói: “Ba tên này đều là kẻ thất phu hữu dũng vô mưu. Cứ làm như thần nói,
như thế, như thế là có thể trừ khử được chúng”. Cảnh Công cả mừng.
Mấy
ngày sau, Sở vương dẫn theo văn võ bá quan, chở xe đầy vàng bạc châu báu, sang
nước Tề để giảng hòa. Tề Cảnh Công mở tiệc lớn cùng chúc mừng lẫn nhau. Ba tên
Điền Khai Cương mang kiếm đứng dưới điện, cao ngạo dương dương. Án Anh trước
sau điềm nhiên tự tại, đối xử với chúng rất đúng độ.
Rượu
được nửa tuần, Cảnh Công nói: “Hoa viên trong cung có cây Kim Đào, quả đã chín,
có thể hái vào cùng ăn!”
Một
lát sau, viên thái giám bê vào một cái mâm vàng trên để năm trái đào. Cảnh Công
nói: “Cây đào trong cung này năm nay chỉ có được năm trái, vị ngọt hương thơm,
khác hẳn các cây khác. Bây giờ thừa tướng hãy nâng ly mời rượu để mừng cho cây
đào!”
Thời
xưa, đào rất khó trồng, vì vậy trong vườn mà có được năm trái đào là của quý
hiếm. Khi đó, Án Anh nâng ly rượu bằng ngọc trước hết kính mời Sở vương, Sở
vương uống cạn ly xong, mời ăn một trái đào. Lại kính mời Tề vương. Tề vương
uống xong lại mời ăn một trái đào.
Vua
Tề nói: “Đào này là thứ quý. Nay thừa tướng đã làm cho hai nước hòa hiếu với
nhau, công lao lớn như vậy, đáng được ăn một trái” Án Anh quỳ xuống ăn trái
đào. Vua Tề lại ban cho Án Anh một ly rượu rồi nói: Trong các công khanh hai
nước Tề, Sở, ai có thể nói rõ công lao lớn nhất của mình sẽ được ăn những trái
đào này”
Điền
Khai Cương liền vươn người bước ra, lớn tiếng nói: “Thần đã từng theo chúa
thượng đi săn ở Đông Sơn, đã giết chết mãnh hổ, công lao ấy thế nào?”
Vua
Tề nói: “Ra sức bảo vệ vua, công lao ấy thật không gì lớn bằng!”
Án
Anh vội vàng tiến lên kính một ly rượu và mời anh ta ăn một trái đào.
Lúc
đó, bỗng Cố Dã Tử đứng phắt dậy, nói: “Giết hổ có gì mà lạ! Ta từng chém chết
giao long trên sông Hoàng Hà, cứu chúa thượng về nước, công lao đó thế nào
đây?”
Vua
Tề nói: “Đó là công lao cái thế. Mau mời rượu, ban đào!”
Án
Anh vội tiến lên kính tửu, mời Cố Dã Tử một trái đào. Lúc đó, Công Tôn Tiếp xốc
áo bước ra, nói lớn: “Ta đã từng xông pha trong mười vạn quân binh, tay vung
gậy sắt cứu được chúa thượng. Quân địch không tên nào dám đến gần, vậy công đó
ra sao