
“Sĩ
chí thiên chung phi quý. Niên quá thất thập thường hy. Phù sanh thân hậu hữu
thùy tri? Vạn sự không hoa du hý! Hưu sính thiếu niên cuồng đãng. Mạc tham hoa
tửu tiện nghi. Thoát ly phiền não thị hòa phi. Tùy phận an nhàn đắc ý”:
(Quan
hưởng ngàn chung cũng chẳng quý.
Tuổi
đã bảy mươi đã hiếm người.
Tiếng
tăm hão, chết rồi, ai biết?
Muôn
sự chẳng qua chỉ trò chơi!
Tuổi
trẻ chớ buông tuồng phóng đãng.
Đừng
ham hoa rượu dể trôi xuôi.
Hãy
tránh ưu phiền rắc rối.
Vui
vẻ an nhàn theo số trời).
Đây
là bài từ “Tây giang nguyệt”(3), khuyên người nên an phận
thủ thường, sống theo duyên phận, chớ để cho bốn thứ “tửu, sắc, tài, tình” làm
tổn hại tinh thần, ảnh hưởng hành vi, dẫn đến chỗ muốn sướng mà chẳng được
sướng, được lợi rồi lại mất lợi.
3. Từ là loại thơ làm
theo các điệu hát có sẵn.
Nói
đến bốn thứ trên thì “sắc” là lợi hại nhất. Mắt là môi giới cho tình, dẫn đến
lòng sinh dục vọng. Khởi đầu là bụng dạ bồn chồn, sau đấy là hồn phi phách tán.
Nếu như nơi rặng liễu tường hoa, ngẫu nhiên hội ngộ thì cũng có thể sự việc tốt
lành. Nhưng chẳng may lại lòng nọ dạ kia, làm thương phong bại tục, chỉ cốt vui
thú chốc lát cho mình mà không nghĩ đến tình nghĩa trăm năm cho kẻ khác thì giả
như người có thê thiếp xinh đẹp mà bị kẻ khác trêu ghẹo thì sẽ thấy ra sao?
Người xưa có bốn câu thơ rất hay:
Nhân
tâm hoặc khả mị
Thiên
đạo bất sai di
Ngã
bất dâm nhân phụ
Nhân
bất dâm ngã thê
(Lòng
người có khi tối
Nhưng
đạo trời chẳng sai
Ta
không trêu vợ người
Vợ
ta sẽ gặp may)
Hôm
nay tôi xin kể chuyện “Áo trân châu” để thấy chuyện nhân quả báo ứng là có
thật, nêu ra để các con trẻ lấy đó mà làm gương.
Truyện
kể về một người họ Tưởng tên Đức, tiểu tự là Hưng Ca, người huyện Tảo Dương phủ
Tương Dương tỉnh Hồ Quảng. Cha của Hưng Ca là Tưởng Thế Trạch, từ nhỏ đã thông
thuộc đường đi Quảng Đông buôn bán. Tưởng Thế Trạch có vợ là La thị đã qua đời
để lại con trai Hưng Ca mới lên 9 tuổi. Tình cha con quyến luyến nhưng lại
không bỏ được con đường cơm áo ở Quảng Đông, vậy nên suy đi nghĩ lại mãi, Thế
Trạch đành mang con đi theo, để dạy dỗ nó ít nhiều điều khôn nhẽ phải. Chú bé
này nhỏ tuổi nhưng mặt mũi sáng sủa, má trắng môi hồng, cử chỉ đường hoàng, ăn
nói lanh lợi, thông minh hơn cả người học thức, khôn ngoan chẳng kém kẻ tài ba.
Mọi người đều xem là của quý vô giá.
Tưởng
Thế Trạch sợ người ta đố kỵ nên dọc đường không nói là con đẻ của mình mà nói
là cháu đằng vợ họ La. Vốn là họ La cũng thường đi buôn bán ở Quảng Đông, họ
Tưởng chỉ mới một đời chứ họ La thì đã ba đời, những nhà buôn bán trọ ở đó đều
quen biết thân thiết. Việc Tưởng Thế Trạch đi buôn mới đầu cũng là do ông bố vợ
họ La dẫn đi. Vì gần đây luôn bị kiện tụng, nhà họ La thất thế, ít qua lại vùng
này, nay thấy Thế Trạch đem tới một cậu bé của nhà họ La mặt mũi xinh xắn, ứng
đối thông minh thì ai cũng thích.
Tưởng
Hưng Ca theo cha đi làm khách thương được mấy lần là đã thông thạo, mọi cách
thức đều biết, cha rất vui mừng. Đến khi chàng ta 17 tuổi, cha ngã bệnh quy
tiên. Cũng may lúc này còn đang ở nhà, không phải làm ma đất khách. Hưng Ca
khóc lóc một hồi, rồi đành phải gạt lệ lo toan tang ma đại sự.
Đến
hôm 49 ngày, họ hàng nội ngoại đều tới thăm viếng. Trong số khách có ông họ
Vương là nhạc phụ tương lai của Hưng Ca, được bà con nhà họ Tưởng ân cần tiếp
đãi. Trong khi trò chuyện, ai cũng khen Hưng Ca trẻ người mà giỏi giang, việc
lớn gia đình chỉ một mình anh ta lo toan tất cả. Chuyện qua chuyện lại, rồi có
người nói: “Thưa cụ Vương, bây giờ lệnh ái đã trưởng thành, sao không nhân dịp
này cho cô cậu làm đám cưới để chung sống với nhau?”
Ông
Vương chưa quyết định. Rồi hôm đó từ biệt ra về.
Bà
con họ Tưởng đợi xong xuôi việc tang lễ, lại tới thúc giục. Mới đầu Hưng Ca
không chịu, sau bị thôi thúc mãi, cũng cảm thấy một mình cô quạnh, đành bằng
lòng vậy. Bèn nhờ bà mối sang nhà họ Vương xin cưới. Ông Vương từ chối nói: “Có
gì thì nhà tôi cũng phải sắm sửa ít đồ, làm ngay sao được. Vả lại tang chưa đầy
năm, cũng chưa nên cưới, đợi sau sẽ bàn”.
Bà
mối về nói lại, Hưng Ca thấy vậy cũng phải thôi, không dám cố xin.
Ngày
tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua một năm, Hưng Ca lễ trước bài vị cha rồi
thay bỏ áo tang, lại nhờ bà mối sang nói, lần này mới được nhận lời. Mấy ngày
sau tiến hành sáu lễ xong xuôi, rước cô dâu về nhà làm vợ.
Bài
“Tây giang nguyệt” có câu: “Hiếu mạc phiên thành hồng mạc, sắc y hoán khứ ma y”
(Màn tang chuyển thành màn đỏ, áo màu đổi lại áo gai).
Cô
dâu này là con gái út của ông Vương, tên gọi Tam đại nhi, vì nàng ta sinh đúng
ngày mồng 7 tháng 7 nên còn gọi là Tam Xảo Nhi. Nhà họ Vương có hai cô con gái
lớn đã gả chồng, cô nào cũng xinh đẹp, khắp vùng đều khen, nên có mấy câu rằng:
“Thiên hạ phụ đa nhân. Vương gia nữ sắc quả. Hữu nhân thú trước tha. Thăng tự
vị phò mã” (Trong thiên hạ chẳng thiếu đàn bà, nhưng con gái nhà họ Vương thật
hiếm có. Ai may mắn mà lấy được họ, thì khác nào được làm phò mã con vua).
Tưởng
Thế Trạch nghe nói ông Vương có con