
Uyển Đậu Hoàng* mang đậm phong vị Bắc Kinh.
*Lư Đả Cổn: Bánh cuộn bột nếp nhân đậu đỏ.
Ái Oa Oa: Xôi nếp nhân đậu đỏ phủ dừa bào.
Uyển Đậu Hoàng: Bánh đậu, thường có màu vàng, dùng trong ngày 3/3 âm lịch.
Nói theo cách của Đài Loan, mấy món này đều có thể quy vào đồ ngọt.
Chúng tôi gắng hết sức để ăn mỗi thứ một ít, nếu ăn không hết thì lại chuyển
cho các bạn khác bên cạnh, rồi nói: “Cho cậu một ít, coi như làm quen.”
Dạo phố hơn một tiếng, mọi người bèn kéo về trường học.
Tôi ăn no quá, về đến phòng là nằm vật xuống nghỉ, cậu em khóa dưới và Từ
Trì, Cao Lượng còn xem lại mấy bức ảnh đã chụp trong ngày.
“Anh Thái, gà của anh này,” Từ Trì gọi.
Tôi nhảy một phát từ trên giường xuống (tôi vẫn đang nằm trên giường mà), xúm lại với bọn họ, hỏi: “Đâu?”
Từ Trì giơ máy ảnh ra trước mặt tôi, màn hình máy ảnh hiện lên rõ ràng nụ cười của Noãn Noãn.
Tôi nhìn chăm chăm Noãn Noãn mấy giây, Từ Trì chuyển sang ảnh tiếp theo,
tôi lập tức chuyển lại, lại nhìn chăm chăm mấy giây nữa.
“Anh Thái, anh về Đài Loan rồi em sẽ gửi cho anh mấy cái ảnh này,” Từ Trì nói.
“Trì huynh.” Tôi sung sướng ôm chầm lấy cậu ta. “Tôi gọi cậu là Trì huynh được không?”
Tối hôm đó tâm trạng bốn người chúng tôi đều rất phấn khởi, chém gió mãi đến tận khuya.
Cậu em khóa dưới thỉnh thoảng đang chém dở lại chạy vào nhà vệ sinh, Cao Lượng hỏi: “Không sao chứ?”
“Mông em thành tranh Phạn Cốc rồi đây,” cậu ta đáp.
Từ Trì và Cao Lượng hồi lâu sau mới hiểu ra Phạn Cốc chính là Phạn Cao, tức Van Gogh, chỉ vì cách phiên âm khác nhau mà thôi.
Tôi ngẫm nghĩ rất lâu mới nhớ ra loài hoa Van Gogh thích vẽ nhất là hoa hướng dương.
Định trèo xuống giường dưới tẩn cho cậu ta một trận vì cái tội nói năng bừa
bãi, nhưng thấy cậu ta mồm miệng há hốc, mặt mũi ngu ngu, chắc đang ngủ
mơ rồi. Tôi đành trèo lên giường mình, nhắm mắt nghĩ đến nụ cười của
Noãn Noãn mà chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau chúng tôi làm vệ sinh cá nhân xong, ăn sáng rồi tới giảng đường nghe giảng. Có
một học giả nghiên cứu rất sâu về Trường Thành tới diễn thuyết cho chúng tôi nghe. Thầy còn mang một mảnh gạch vụn từ Trường Thành to bằng bàn
tay đến, để các bạn sinh viên thử độ cứng của nó.
“Có thể dùng bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể các bạn, ai làm vỡ được sẽ có thưởng,” thầy cười nói.
Khi mảnh gạch chuyền tới tay tôi, tôi nói với cậu em bên cạnh: “No, cho anh mượn đầu cậu.”
“Anh mượn cái đầu lợn làm gì?” cậu ta đáp.
Tôi chẳng buồn đếm xỉa tới cậu ta, hai tay nắm chặt mảnh gạch vụn, vận hết
tất tật công lực, tưởng tượng mình là Songoku trong Bảy viên ngọc rồng,
miệng gầm AA... chuẩn bị biến hình thành Siêu Xayda.
“Gãy rồi,” tôi nói.
“Gãy thật rồi?” Noãn Noãn kinh ngạc hỏi.
“Ngón tay anh gãy rồi.”
Lần này đến lượt Noãn Noãn không buồn đếm xỉa đến tôi nữa.
Tiết giảng kết thúc vào khoảng 10 giờ, các giáo viên kêu mọi người chuẩn bị rồi đi leo Trường Thành.
Lại nhớ tối qua các thầy còn dặn đi dặn lại nên đi giày thoải mái, các bạn
nữ đừng điệu đà đi giày cao gót, nhớ mang bình nước, đừng vứt rác bừa
bãi ở Trường Thành, ai dám ký tên lên gạch Trường Thành thì chết chắc
vân vân.
“Còn phải chuẩn bị gì nữa?” tôi tò mò hỏi Noãn Noãn. “Chẳng nhẽ còn phải đeo cà vạt nữa à?”
“Em nghĩ là muốn mọi người chuẩn bị tinh thần không lại vui quá mà ngất đi,” Noãn Noãn nói.
Tôi nghĩ cũng có lý.
Hồi đầu muốn tham gia trại hè lần này phần lớn cũng là vì muốn được leo lên Trường Thành.
Chúng tôi sẽ leo đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh cách Bắc Kinh chừng 70 cây số, có thể đi thẳng tới bằng đường cao tốc.
Nếu thời cổ kỵ binh vượt qua Bát Đạt Lĩnh, chẳng phải phút chốc có thể đến sát chân thành Bắc Kinh sao?
Đang toát mồ hôi sợ thay cho Bắc Kinh, đột nhiên trong xe rộ lên tiếng “Ồ”.
Tôi quay đầu nhìn ra cửa kính, bị cảnh tượng trước mắt làm cho sững sờ.
“Đây...” tôi lắp bắp.
“Đây là Cư Dung Quan,” Noãn Noãn nói.
Hai bên Cư Dung Quan là núi cao sừng sững chót vót như những lưỡi gươm,
giữa là khe sâu, quan thành Cư Dung Quan nằm ở chính giữa khe sâu đó.
Địa thế hiểm trở, chắn giữ vị trí xung yếu của Bắc Kinh, chẳng trách Lã thị Xuân Thu * từng đề: Thiên hạ cửu tắc, Cư Dung kỳ nhất.
*Lã thị
Xuân Thu còn gọi là Lã Lãm là bộ sách do Lã Bất Vi – thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc sai các môn khách soạn ra những điều mình biết, hợp lại thành sách.
Cư Dung Quan không chỉ hùng vĩ, mà phong cảnh còn mê đắm lòng người, dãy núi hai bên ánh màu lam biếc, dòng suối trong xanh
chảy ở chính giữa. Thật khó tưởng tượng nổi chiến tranh có thể thay thế
vẻ hào hùng, tú lệ nơi đây.
“Xem ra Bắc Kinh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi” tôi nói.
“Anh bảo gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.
“Kỵ binh vượt qua Trường Thành – Bát Đạt Lĩnh, nhìn thấy Cư Dung Quan nhất
định sẽ phải xuống ngựa chiêm ngưỡng cảnh đẹp này,” tôi nói. “Trong lúc
cảm kích trước vẻ đẹp tú lệ nơi đây, có lẽ sẽ đột nhiên tỉnh ngộ, cảm
nhận nhân sinh khổ đoản, đánh đánh giết giết quá vô vị, lên ngựa quay
đầu rút về chưa biết chừng.”
Noãn Noãn trợn tròn mắt nhìn tôi, không nói gì.
“Em đừng lo.” Tôi cười cười với Noãn Noãn. “Bắc Kinh a