
vừa tới kinh thành nhậm chức, bèn mua lại ngôi nhà này.
Hơn hai trăm năm nay, ngôi nhà đã qua nhiều đời chủ, trải qua bao thăng trầm, tiệm cơm Tấn Dương cũng kinh doanh ở đây.
Năm 2001 tiệm cơm Tấn Dương chuyển đến chái phía tây cố cư, đồng thời Kỷ
Hiểu Lam cố cư cũng bắt đầu được tu sửa, một năm sau đó thì chính thức
được mở cửa đón khách tham quan.
Kỷ Hiểu Lam cố cư giờ chỉ còn
lại hai gian nhà chính và một mảnh sân hướng Nam Bắc, rộng không đến một phần ba diện tích ban đầu.
Phía Nam là chính sảnh, hiện đang
dùng làm phòng lưu niệm, trưng bày cuộc sống thường nhật của Kỷ Hiểu Lam cùng các tài liệu lịch sử liên quan, ví dụ như tuyển tập Tứ khố toàn
thư ông từng làm chủ biên và Duyệt Vi Tảo Đường Bút Ký ông sáng tác
những năm cuối đời; còn có một số những vật dụng và tàng thư trước kia
Kỷ Hiểu Lam từng dùng, bao gồm cả tẩu thuốc nổi tiếng của ông.
Bên trong có một bức tranh vẽ Kỷ Hiểu Lam cao bằng người thật, một ông lão có khuôn mặt xanh gầy, chòm râu dài buông trước ngự
Phản ứng của đám sinh viên chúng tôi khi lần đầu nhìn thấy bức tranh đều
kinh ngạc, ông lão trước mắt tướng mạo tầm tầm, thậm chí có thể nói là
xấu hoắc; còn hình tượng Kỷ Đại học sĩ trong lòng mọi người lại là bậc
phong lưu tài tử.
Như vậy cũng tốt, Kỷ Hiểu Lam thông minh đa tài, hóm hỉnh hài hước, nếu như cả tướng mạo cũng hơn người, thì thật hơi quá.
Vài cậu sinh viên nở một nụ cười an ủi, có lẽ trong lòng bọn họ đang nghĩ
kẻ tướng mạo chẳng ra sao cũng có thể hào hoa phong lưu.
Kẻ hào hoa phong lưu có thể tướng mạo tầm tầm, nhưng không có nghĩa kẻ tướng mạo tầm tầm là có thể dễ dàng hào hoa phong lưu.
Lưu Đức Hoa nhìn như con lợn, con lợn nhìn như Lưu Đức Hoa, ý nghĩa của hai trường hợp này hoàn toàn không giống nhau!
“Hôm nay anh sao thế?” Noãn Noãn hỏi. “Cứ lầm bầm cái gì trong miệng.”
“Thế à?” Tôi định thần lại.
Noãn Noãn săm soi mặt tôi một hồi, gật đầu nói: “Có vẻ rất kỳ quái khó tả.”
“Có thể vì tối qua không ngủ được, sáng nay lại ngủ kỹ quá.” Tôi cười cười, nói tiếp: “Em có thấy bức tranh vẽ Kỷ Hiểu Lam, rất giống với ông lão
hôm qua chúng ta đã gặp trên phố Tô Châu không?”
Noãn Noãn chăm chú xem xét bức tranh, nói: “Anh nói mới thấy, đúng là có nét giống thật.”
“Em còn mang tiền đồng không,” tôi nói, “đưa cho ông ấy một đồng, hỏi xem ông ấy ở đây có vui không?”
“Nhạt phèo” Noãn Noãn nói.
Phía Bắc là thư phòng của Kỷ Hiểu Lam - Duyệt Vi Thảo Đường.
Trong thảo đường có một bức vẽ Kỷ Hiểu Lam mặc quan phục, nhìn oai nghiêm mà cũng rất tự tại.
Trên tường treo kín tranh chữ, còn có một bức chân dung của Khổng Tử.
Thảo đường được phân thành ba nơi chính, một nơi dùng để tiếp khách uống
trà, một nơi để đọc sách viết lách, còn một nơi để sinh hoạt.
Nhìn tổng thể, gian thư phòng rất giản đơn, thể hiện rõ tính đạm bạc tiết kiệm của Kỷ Hiểu Lam.
Chúng tôi đi ra sân, sân rất nhỏ, bốn phía trồng cỏ lơ thơ, phía tây có một ang nước lớn.
Một cây hải đường cao chừng hai tầng nhà cô đơn đứng ở góc đông bắc, nổi bật giữa mảnh sân giản dị.
Thẳng cây hải đường có một bức tượng hình người tì nữ, tay cầm một cây quạt.
Thầy Lý dẫn mọi người đến bên cây hải đường, bắt đầu kể sự tích về cái cây này.
Cây hải đường này do chính tay Kỷ Hiểu Lam trồng, trước vốn có hai cây, một cây đã bị chặt bỏ khi cải tạo nhà.
Kỷ Hiểu Lam đã trồng hai cây này để tưởng nhớ đến mối tình đầu của ông – nàng Văn Loan.
Khi Kỷ Hiểu Lam gặp Văn Loan lần đầu, nàng mới 13 tuổi, là người trong nhà chú Tư của Kỷ Hiểu Lam.
Văn Loan tính tình đáng yêu, thông minh xinh đẹp, hai người lại trạc tuổi,
thường chơi đùa cùng nhau dưới gốc cây hải đường nhà chú Tư.
Một
năm sau, cha của Kỷ Hiểu Lam đem theo con rời quê lên kinh nhậm chức, Kỷ Hiểu Lam vô cùng lưu luyến, trước khi lên đường còn vội vàng chạy tới
nhà chú Tư tạm biệt Văn Loan, tặng nàng một cây quạt làm kỷ niệm.
Mấy năm sau Kỷ Hiểu Lam trở về quê cũ, Văn Loan đã trở thành thiếu nữ, xinh đẹp thướt tha, rung động lòng người.
Hai người đứng dưới cây hải đường thề ước nguyện chung thân, hẹn sau khi Kỷ Hiểu Lam đạt được công danh sẽ về quê cưới nàng làm vợ.
Lần đầu ứng thí, Kỷ Hiểu Lam bị rớt, mãi đến năm 24 tuổi cuối cùng mới đỗ cao Giải Nguyên.
Ông không quên lời hẹn ước năm xưa, lập tức cử người tới nhà Văn Loan cầu thân.
Nhưng cha Văn Loan nhân cơ hội vớ được con rể vàng, thách cưới một khoản tiền rất lớn, hôn sự vì thế mà bị chậm trễ.
Văn Loan không hề biết chính cha mình là người cản trở bên trong, ngỡ rằng
Kỷ Hiểu Lam đã quên sạch lời ước hẹn, từ đó buồn sầu mà lâm bệnh, ngày
một héo hon, cuối cùng chết trẻ.
“Kỷ Hiểu Lam đau khổ tột cùng,
bèn đích thân trồng hai cây hải đường ở đây,” thầy Lý nói: “Hai mươi năm sau, lúc Kỷ Hiểu Lam ngủ bên dưới gốc cây này, có mơ thấy một người con gái nhẹ nhàng bước lại, đứng yên không nói năng gì. Sau khi tỉnh lại,
biết là Văn Loan, bèn hỏi thăm chỗ Văn Loan được chôn cất, nhưng người
nhà nói mộ Văn Loan từ lâu đã bị cây dại cỏ hoang che kín, không còn
nhận ra nổi nữa. Kỷ Hiểu Lam xúc động nghẹn ngào, viết nên bài thơ ‘Thu
Hải Đường