
áo nguyên thuỷ để trừ tà cầu phúc. Nếu những gì KhuấtNguyên tiên sinh thuật lại không sai thì chiêu thức “hoán hồn” ở QuảngĐông chắc cũng bắt nguồn từ thuật phù thuỷ biến hoá, đương nhiên cũng có khả năng là trong thuật phù thuỷ chiêu hồn phục phách sử dụng nghi thức tôn giáo của dân tộc thiểu số. Còn thuật phù thuỷ và tạp kỹ có quan hệvới nhau là do thuật phù thuỷ pha trộn vào tạp kỹ, hay là tạp kỹ đượctách ra từ thuật phù thuỷ, điều này không ai rõ. Nhưng do hai tiết mụcbiểu diễn đó có độ khó tương đương, vì vậy tiền thu được cũng khá. Hoánhồn đối với bán gia mặc dù không phải chuyện nhỏ, nhưng những chuyện như thế này mang tính khoa trương nhiều hơn.
Quyển mười lăm trongHữu đài tiên quán bút ký còn ghi lại một loại “thuật gọi hồn”, tức làgọi hồn người sống đang ở nơi đất khách quê người về. Ở Hồ Bắc có mộtgia đình nông dân, thời loạn lạc nên người chồng bị bắt đi lính, mãikhông thấy về. Có người mách với mẹ người đó rằng: “Có thể lấy giày màcon trai bà đã đi đặt dưới gầm giường, buộc hai chiếc giày quay mặt vàonhau, sau đó đêm nào cũng gọi tên con trai bà thì con trai bà có thể trở về.” Lại có một chuyện, là do con dâu của Du Việt kể, chị ta từng ở nhà họ Chu để lánh nạn binh đao, đứa con trai độc nhất của nhà hàng xóm bịgiặc bắt đi, có người mách mẹ cậu ta là đi xin dầu và bấc đèn của bốnmươi chín nhà, cứ đến đêm thì đốt, sau đó gọi tên con bốn mươi chín lần, đêm nào cũng làm như vậy, phải gọi thật tha thiết. Mấy tháng sau, đứacon đó đúng là đã thoát khỏi sự giam giữ của bọn giặc mà về, theo lời kể của cậu ta, đêm nào cũng nghe thấy tiếng mẹ gọi mình. Mặc dù những linh hồn được hoán về này chưa rời khỏi thể xác, nhưng nó có thể nghe thấytiếng hô tiếng hoán, cảm nhận của những linh hồn trong thuật phù thuỷchiêu hồn là giống nhau.
Chuyện cuối cùng không thể không nói, đó là từ thời Minh – Thanh có rất nhiều phong tục ở các địa phương, gặpphải chuyện “mất hồn”, khi chiêu hồn, còn phải đến miếu Thành Hoàng hoặc thổ địa đốt hương cúng bái. Đoán rằng chỉ có thể là một trong hainguyên nhân dưới đây.
Một là, sau thời Minh, miếu Thành Hoàng của châu huyện đã trở thành âm phủ được địa phương hoá, trước kia, nhữnglinh hồn bị âm phủ chiêu về, đều phải gặp Diêm Vương, bây giờ chỉ cầnđến gần những kẻ do thần Thành Hoàng cai quản là được. Người đã chết,linh hồn bị giam trong miếu Thành Hoàng, trong âm gian gặp phải vụ kiệnnào cần đi bắt người sống về làm chứng, có chuyện gì phải kéo sinh hồnmới có hiệu quả thì lệnh bắt hồn đó cũng là do Thành Hoàng phê chuẩn. Vì vậy, nếu có người bị mất hồn thì khả năng là bị Thành Hoàng tạm thờibắt đi, lúc này đến miếu thắp hương cầu khấn cũng chính là cách để thămdò tình hình thực tế, cầu xin lão gia giơ cao đánh khẽ, nhanh chóng thảsinh hồn đang bị giam giữ về.
Nguyên nhân thứ hai là, cho dùThành Hoàng ở châu huyện hay miếu thổ địa thôn xóm, trong mắt mọi ngườiđều có trách nhiệm bảo vệ cho các sinh linh của địa phương, vậy thì khiquỷ tốt đi tuần, gặp phải những sinh hồn lạc lối, về lý thì họ có nghĩavụ phải thu nạp những linh hồn ấy. Nếu là sinh hồn của những gia đìnhgiàu có, Thành Hoàng, thổ địa sẽ nghĩ cách tìm ra gia chủ, cung kính đưa sinh hồn đó trở về phủ, còn bách tính thường dân quá nhiều, không thểđể ý hết được, nên đành để thân nhân của những linh hồn đó vất vả đếnmiếu, dâng hương bẩm báo, rồi mang sinh hồn của gia đình mình về. Đạo lý này không cần nói chắc mọi người cũng hiểu, giờ con cái hoặc người thân nhà ai bị mất tích, việc đầu tiên mà thân nhân người đó làm chẳng phảicũng là chạy đến đồn công an để báo án sao?
Các kiểu thoát khiếu [1'>
[1'> Khiếu ở đây là lỗ.
Trong các cuốn tiểu thuyết, bút ký, thường gọi việc linh hồn rời khỏi thể xác là “lý khiếu” (trong truyện Thang Công ở quyển ba của Liêu trai chídị), linh hồn quay lại thể xác gọi là “nhập khiếu” (trong truyện Sinhhồn nhập thai, thai phụ sinh nở của Tục tử bất ngữ do Viên Mai viết).Càng kỳ lạ hơn, hồi còn nhỏ, khi nghe người già kể những câu chuyện kiểu này, họ liền gọi những linh hồn thoát khỏi thể xác trong giấc mơ là“khiếu”, cách nói nghe có vẻ hơi “trẻ con”. Khi về già nghĩ lại chuyệnnày, đột nhiên cảm thấy từ “khiếu” này có thể viết nhầm của từ “xác”,bởi vì từ “xác” và từ “khiếu” trong tiếng Trung là từ đồng âm khácnghĩa. Như trong truyện Bào hải la phu ở quyển bảy trong Động linh tụcchí của Quách Tắc Vân viết cũng gọi là “xuất xác”. Nhưng cũng có một khả năng khác, tức là từ “khiếu” này muốn nói đến “khổng khiếu”[2'> trênngười. Bởi vì cũng có một cách nói, đó là linh hồn rời khỏi thể xác liền coi lỗ hổng đó là đường thoát. Là từ “xác” hay từ “khiếu”, cho dù cólàm rõ thì về ý nghĩa cũng không khác nhau nhiều, đều là nơi trên cơ thể để linh hồn rời khỏi và quay lại thể xác, nhưng từ đó chúng ta liêntưởng tới một chuyện rất nhỏ khi linh hồn rời khỏi cơ thể: Linh hồnthoát khỏi thể xác như thế nào? Điều này lại khiến chúng ta không thểkhông nghĩ đến vấn đề về hình dạng của linh hồn là to hay nhỏ.
[2'> Khổng khiếu: lỗ hổng.
Theo cách nhìn thông thường trong nhân gian, linh hồn của một người sẽ cóhình dạn