
lời xin lỗi thêm lần nữa. Mặc dù khi bày tỏ tình cảm tôithường ngượng ngùng không dám mở miệng, cảm thấy giống trò hề của nhữngdiễn viên trên sân khấu báo đáp lại tiếng vỗ tay của khán giả ở phíadưới, nhưng cuối cùng vẫn phải lấy hết dũng khí, nói lời cảm ơn vớinhững nhà phê bình và những độc giả, bạn bè đã quan tâm tới cuốn sáchtrước của cuốn này. Đó hoàn toàn không phải vì sự khen ngợi quá mức củahọ, mà nhờ những bình luận của họ khiến tôi có cảm giác vui mừng như tâm linh tương thông. Điều này đương nhiên cũng chính là nguyên nhân chủyếu cổ vũ tôi viết tiếp đề tài này. Nói đến hồn không thểkhông nói tới “phách”[1'>. Mặc dù bình thường những cụm từ kiểu như “bahồn bảy phách”, “hồn bay phách tán”, “hút hết hồn phách”, “chiêu hồn gọi phách”… hay được nhắc đến, nhưng “phách” là vật gì thì vẫn chưa đượcchú ý nghiên cứu lắm.
[1'> Phách: vía.
Trong văn hoá u minh của bất kỳ dân tộc nào, linh hồn và tính chất của nó đều chiếm vị trítrung tâm. Nhưng vấn đề này trong cách lý giải của những triết gia lạihoàn toàn không giống với cách nhìn nhận thông thường của dân tộc đó.Trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc cổ đại, những khái niệm về linhhồn có sức ảnh hưởng lớn nhất chính là mấy đoạn trích dẫn trong Kinhđiển Nho học. Mặc dù trích dẫn cổ văn khiến người ta phiền lòng, nhưnglại không thể tránh, vậy thì hãy bắt đầu bằng câu chuyện ma đầy ám ảnh,xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn hiến Trung Hoa.
Thời XuânThu, năm Lỗ Tương Công thứ ba mươi, tức là năm 543 trước công nguyên,người chấp chính của nước Trịnh[2'> là Bá Hữu[3'>. Người này hống hách,chuyên quyền lại thích uống rượu, gây ra mối quan hệ bất hoà với cácquan đại phu khác trong triều. Năm đầu tiên, Bá Hữu phái Tử Tây đi sứnước Sở, Tử Tây không chịu đi, nói: “Quan hệ giữa nước Sở và nước tađang căng thẳng, ngài phái ta sang nước Sở, thế chẳng phải có ý muốn tađi vào chỗ chết sao?” Bá Hữu nói: “Họ nhà ngươi bao đời nay đều lo việcthiết lập quan hệ bang giao, ngươi không đi thì ai đi?” Tử Tây đáp: “Điđược thì ta sẽ đi, có nguy hiểm thì không nhất thiết phải đi, chuyện này liên quan gì đến việc nhà ta bao đời nay lo việc thiết lập quan hệ bang giao chứ!” Bá Hữu không chịu nhượng bộ, nhất định bắt Tử Tây phải sangnước Sở. Tử Tây tức giận vô cùng, định kéo gia đinh tới liều mạng với Bá Hữu, cũng may được nhiều quan lại trong triều khuyên giải, hai nhà mớikhông động binh đao.
[2'> Nước Trịnh: một nước chư hầu thời Xuân Thu, là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện nay.
[3'> Bá Hữu: tên tự của Lương Tiêu, quan đại phu nước Trịnh (Lương Tiêu làcon của Công Tôn Triếp, cháu Công Tử Khứ Tật), khi ấy là Thượng Khanh,là người cầm quyền chính ở nước Trịnh.
Đến một ngày trong thángBảy năm đó, Bá Hữu uống say cả đêm trong mật thất của ông ta như thườnglệ, tới sáng lên triều trong bộ dạng lướt khướt, lại nhắc đến chuyệnphái Tử Tây đi sứ sang nước Sở, mà còn nói chắc như đinh đóng cột, không dễ gì từ chối. Sau khi ban lệnh, ông ta lại leo lên xe, quay về nhàuống rượu.
Tử Tây biết rằng trận này không thể không đánh, mà BáHữu đang say mềm như bún, thật là một cơ hội tốt để ra quân áp chế. Thếlà ông ta thống lĩnh gia đinh, liên kết với mấy quan lại khác, đến gâyhấn với Bá Hữu. Bá Hữu say rượu, nằm một chỗ, làm sao có thể đánh nhauđược! Kết quả, bị Tử Tây đánh cho thất bại thảm hại, được gia đinh dìulên xe tháo chạy khỏi nước Trịnh. Chạy được nửa đường, ông ta mới nhậnbiết được chuyện gì vừa xảy ra, đành tạm lánh sang nước Hứa một thờigian.
Vài ngày sau, nghe nói các quan lại của nước Trịnh mở cuộchọp bàn để liên kết lại, đứng lên phản đối mình, Bá Hữu tức tới mức lửagiận bốc ngùn ngụt. Lại nghe nói Thượng khanh Tử Bì ngày hôm đó khôngtham dự liên quân đánh mình, cảm thấy vẫn còn khả năng lôi kéo vài liênminh, thế là mang theo đám tàn binh quay về nước Trịnh. Tứ Đái[4'> củanước Trịnh thống lĩnh quốc dân ra nghênh chiến, kết quả, Bá Hữu chếttrong chợ dê.
[4'> Tứ Đái (?-536): tự là Tử Thượng, con trai của Công Tôn Hạ. Là quý tộc nước Trịnh.
Chớp mắt đã bảy, tám năm trôi qua, đến năm Lỗ Chiêu Công thứ bảy, tức năm535 trước công nguyên, khắp đô thành nước Trịnh rộ lên chuyện có hồn ma. Giữa ban ngày ban mặt có người đứng giữa đường hét lớn: “Bá Hữu đếnrồi!”, khiến những người đi đường đều hoảng loạn. Chuyện này ầm ĩ suốtmấy ngày, mọi người lại nhắc tới một chuyện xảy ra vào tháng Hai nămtrước. Có người nửa đêm mơ thấy Bá Hữu, mình mặc áo giáp, đầu đội mũtrụ, vừa đi vừa nói: “Đến ngày Nhâm Tý tháng sau, ta phải giết chết TứĐái, ngày Nhâm Dần sang năm, ta phải giết cả Công Tôn Đoàn.”
Kếtquả, hai kẻ thù của Bá Hữu đều chết đúng vào ngày đó. Giờ Bá Hữu lạihiện hình ngay trên đường, xem ra càng ngày càng lớn chuyện. Tử Sản bènáp dụng cách “dàn xếp cho yên”. Ông ta cho rằng: “Ma có nơi về, sẽ không vương vấn trần gian nữa”, Bá Hữu còn “vương vấn” là bởi vì con cháu của ông ta vẫn chưa được sắp xếp ổn thoả, ông ta không có nơi thờ cúng,không tìm được cơm ăn nước uống trên nhân gian, phải ôm bụng đói. Thế là Tử Sản bố trí chức tước cho con cháu của Bá Hữu, khôi phục thân phậnquý tộc của họ. Kết quả cũ