, sóng vỗ trùng trùng điệp.
Nó nhìn lên đền An-dương vương hỏi:
– Con đã vào đền lễ nhiều lần cùng với mẹ và các anh. Mẹ chỉ cho con
tượng người cầm gươm đứng giữa là An-dương vương, người cầm nỏ đứng bên
là Cao Nỗ, người cầm trượng là Vũ Bảo Trung. Trước mặt mấy thần tượng là tượng hai người quỳ gối, một là Triệu Đà, hai là Trọng Thủy. Nhưng bố
ơi, tại sao không thờ Mỵ Châu?
– Không thờ! Người Việt không thờ những loại gái bán thân cho ngoại tộc, vì một người chồng ngoại tộc mà hại cả cha mẹ, tổ tiên, hại cả giang
sơn, hại cả dân tộc. Nhưng sau này người Hán cai trị chúng ta, họ mới ra ngoài đảo Nghi-sơn xây đền thờ Mỵ Châu, để khuyến khích những người con gái Việt đi theo giặc, bán thân cho giặc, bán hết cả cho giặc như Mỵ
Châu. Có điều sau khi Mỵ Châu chết rồi, tự nhiên những con trai ở vùng
Cửu-chân có ngọc óng ánh như vết máu. Ngọc đó bị mờ, lấy nước giếng ở
núi Biện-sơn rửa thì ngọc sáng ra. Còn Trọng Thuỷ sau khi đuổi tới đây,
thấy Mỵ Châu chết, chôn cất tử tế, rồi về Cổ-loa nhảy xuống giếng tự tử
chết. Ngọc trai ở đây bị mờ, lấy nước giếng Cổ-loa rửa còn sáng hơn nước giếng Biện-sơn.
Đào Kỳ lại thắc mắc:
– Tại sao bố lại đặt tên anh cả là Nghi Sơn, hai hai là Biện Sơn? Đó là nhân vì địa danh ở Ngọc-đường hay vì lý do vong quốc?
Đào hầu thở dài:
– Tổ tiên con trước cũng là một tướng của An Dương vương, truyền đến bố
là bảy đời. Mình mất nước tới nay là 184 năm rồi. Nếu mình muốn phục
quốc, phải tìm cho được hai thứ: Một là bí quyết làm nỏ của đại tướng
Cao Nỗ, hai là tất cả những bí quyết võ công thời An Dương vương. Bố đặt tên cho hai anh con, là muốn nhắc nhở đến cái hận vong quốc. Còn tên
con, cha muốn con nhớ đến cái hận mất đất Lĩnh-nam. Bởi tổ tiên ta gốc ở núi Kỳ, phía Nam Ngũ-lĩnh.
Đào Kỳ khẳng khái:
– Võ công của người xưa chế ra, tại sao mình không thể chế ra?
Đào hầu dắt con trở về, cha con đủng đỉnh xuống núi:
– Đã đành mình có thể chế, nhưng người xưa mất bao nhiêu tâm huyết mới
tìm ra những chiêu thức bí hiểm. Nếu con học võ của tổ tiên rồi từ chiêu thức đó, biến chế thành võ học mới, sẽ đỡ tốn công hơn. Bố nghe nói,
khi Vạn-tín hầu Lý Thân tự vận, có ghi chú tất cả võ công vào 200 thẻ
bằng đồng. Nhưng không hiểu nay ai giữ? Còn trước khi Cao Nỗ đánh trận
cuối cùng rồi tuẫn quốc, cũng có ghi chép, vẽ đồ hình nỏ thần để lại cho đời sau, nhưng nay không hiểu ở đâu?
Hai cha con đang đắm mình trong những biến cố gần 200 năm trước, thì có tiếng quát:
– Khôn hồn đứng im, nếu động đậy, ta ra lệnh buông tên.
Hai cha con giật mình nhìn xung quanh, gần 30 binh Hán, tên đặt lên
cung, chỉ chờ lệnh là buông. Người chỉ huy là tên béo mập thả ban nãy.
Đào hầu sợ Đào Kỳ sử dụng võ, bảo con:
– Không được chống trả.
Tên béo mập ra lệnh:
– Quăng vũ khí ra xa.
Đào hầu tháo thanh kiếm trên lưng, quăng ra xa. Tên béo mập cười ha hả:
– Phen này tụi bây có đến trăm cái đầu cũng phải rụng hết.
Triệu Thanh ra lệnh cho lính trói Đào hầu và Đào Kỳ lại rồi bắt hai cha
con đi về phía một doanh trại. Đào hầu chú ý nhìn thấy đây là một doanh
trại kỵ binh mới cất lên không lâu. Ông thắc mắc:
– Quân kỵ ở đâu đông thế này? Họ đến vùng này làm gì mà ta không biết?
Ông nhìn lên cột cờ ở sân thấy thêu con gấu đen thì giật mình:
– Thì ra kỵ binh ở Giao-chỉ. Vậy có biến cố gì đây?
Thời bấy giờ Thái-thú Cửu-chân là Nhâm Diên, bất hoà với Thái-thú
Giao-chỉ là Tích Quang. Cho nên những người bị Tích Quang truy nã thì
chạy vào Cửu-chân ẩn náu, và những người bị Nhâm Diên truy nã thì chạy
ra Giao-chỉ tỵ nạn. Mỗi Thái-thú có một quân trực thuộc toàn người Hán
tổng cộng 12.500 người. Mỗi quận gồm 4 sư bộ và một sư kỵ. Mỗi huyện thì có một sư hỗn hợp, cứ một người Hán lại có một người Việt.
Đào hầu thấy kỳ hiệu của thiết kỵ Giao-chỉ tiến vào Cửu-chân, làm ông nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn:
– Một là hai Thái-thú bất hoà với nhau, đem quân đánh nhau. Hai là có
cuộc khởi binh của một trong chín Lạc-hầu, lực lượng Hán ở Cửu-chân
chống không nổi phải viện thêm lực lượng Giao-chỉ.
Nhưng ông thấy điều này không đúng, vì đất Cửu-chân có chín Lạc-hầu thì
năm vị đã thoả hiệp với thái-thú, hai vị thì sống xa vời với chuyện phục quốc. Chỉ còn Đào trang nhà ông với Đinh trang của em vợ ông là còn giữ nguyên chí nguyện của tổ tiên. Ông với em vợ Đinh Đại hiện chưa có động tĩnh gì đến nỗi Thái-thú Cửu-chân phải viện quân từ Giao-chỉ vào.
Đúng như quan chế hồi đó, thì Lạc-hầu còn ở địa vị cao hơn sư trưởng,
nhưng thực tế thì bọn Hán quan thường dùng sức mạnh, bắt giam các
Lạc-hầu, Lạc-tướng là thường. Đấy là nói quân Hán ở Cửu-chân. Huống hồ
đây lại là quân Hán của Giao-chỉ gửi vào.
Triệu Thanh đưa cha con Đào hầu vào doanh trại giao cho mấy tên lính và dặn:
– Chúng bay hãy giam hai con chó Nam-man này lại, đợi ta phát lạc sau.
Mấy tên quân dẫn cha con Đào Kỳ vào một căn lều kín, bỏ đó, đóng cửa đi ra. Đào hầu bảo con:
– Có cách thoát thân rồi, con thử nghĩ xem có giống như ý bố không?
Đào Kỳ thì thầm vào tai bố:nói:
– Đợi đến đêm, bố cắn dây cởi trói cho con. Rồi con cởi trói c