ho bố. Bố con mình thư thả đi về.
Đào hầu nói:
– Bố đưa con ra khỏi doanh trại, con về báo cho mẹ biết, kẻo mẹ lo sợ.
Còn bố thì bố trở lại dọ thám xem quân kỵ Giao-chỉ vào Cửu-chân làm gì?
Đào Kỳ nói:
– Bố nghi là phải. Con nghĩ binh lính ở Cửu-chân dư sức đánh dẹp bất cứ
trang ấp nào của ta, hà cớ Thái-thú phải viện kỵ binh Giao-chỉ? Có khi y muốn tiêu diệt chín nhà chúng ta cũng nên.
Trời đã trở về chiều. Mặt trời ngả bóng, vẫn không thấy Triệu Thanh trở
lại để trả thù như ước tính. Đào hầu ghé răng cắn dây cởi trói cho con.
Sau đó Đào Kỳ cởi trói cho cha. Hai người chưa kịp đứng dậy thì có tiếng chân người đi tới, rồi tiếng một tên quân Hán nói:
– Ta mang cơm cho hai con chó Việt ăn đây.
Cánh cửa mở, hai tên quân Hán bước vào. Đào hầu hô:
– Phát chưởng!
Đào Kỳ ra chiêu Loa thành nguyệt hạ, Đào hầu ra chiêu Tây vu xuất binh.
Hai tên Hán bị ngã chết giấc tức thì. Đào Hầu cởi quần áo của tên to lớn mặc vào. Đào Kỳ bắt chước cha, cởi quần áo của tên nhỏ bé mặc vào,
nhưng vẫn còn rộng thùng thình. Hai cha con dùng dây trói hai tên quân
Hán lại rồi mở cửa lều ra ngoài. Đào hầu dẫn con hướng về phía góc doanh trại vắng người, chỉ ra ngoài nói:
– Con theo hướng này băng qua đồi thì về trang của mình được.
Đợi Đào Kỳ đi rồi, ông mới nhắm hướng đại doanh đi tới. Đại doanh là một căn lều khá lớn, bên trong có đèn nến sáng choang. Ông nép mình dưới
cửa sổ nhìn vào: Bên trong có hơn mười người ngồi quanh một cái bàn,
dường như đang hội họp. Ông nhận được mặt các quan chức người Hán ở
Cửu-chân: Thái thú Nhâm Diên, Đô-uý Dương Hiển, Đô-sát Chu Khải và một
số võ quan ông không nhận ra.
Đô-sát Chu Khải chỉ lên tấm bản đồ:
– Từ Đào trang đến Đinh trang xa khoảng 10 dậm. Trang chủ Đào trang là
Đào Thế Kiệt 50 tuổi, văn võ kiêm toàn. Vợ là Đinh Xuân Hoa 40 tuổi, võ
công không thua chồng là bao. Đệ tử chân truyền có ba người là Trần
Dương Đức, Trịnh Quang, Hoàng Thiều Hoa, cả ba đều văn võ kiêm toàn.
Thiều Hoa năm nay 18 tuổi, có vẻ đẹp quốc sắc thiên hương, khắp vùng đều biết tiếng. Thế Kiệt có ba con trai là Nghi Sơn, Biện Sơn, và Kỳ. Hai
người lớn thì võ công tuyệt thế, đứa nhỏ mới 13 tuổi, nhưng văn võ đều
thông. Đệ tử ngoại đồ 88 người, tráng đinh 500, phụ nữ biết võ 200. Dân
chúng trong trang gồm 1.200 nóc gia, tổng cộng 6.300 người. Lương thực,
lừa ngựa đầy đủ. Người trong trang được tổ chức thành đội ngũ chỉnh tề.
Thái-thú Nhâm Diên hướng vào một võ quan trẻ nói:
– Từ khi thuộc hạ về đây trấn nhậm nhận thấy một điều khó khăn nhất là
tất cả dân chúng đều quy tụ vào chín Lạc-hầu. Mà chín Lạc-hầu đều là con cháu của đám di thần Âu-lạc. Đám này nhận di ngôn của Thục Phán ẩn náu
chờ thời, phản Hán phục Việt, cho nên mối nguy nổi loạn không biết sẽ nổ ra lúc nào.
Ngừng một lúc y nói tiếp:
– Mấy năm trước đây bên Trung-nguyên chúng ta xảy ra vụ Vương Mãng cướp
ngôi, thiên hạ tao loạn, phân năm xẻ bảy. Thuộc hạ không quy phục Vương
Mãng. Vương Mãng mấy lần định mang quân sang hỏi tội. Bọn Lạc-hầu,
Lạc-tướng thấy vậy rục rịch định nổi loạn. Ty chức biết trước vội vàng
ban hành pháp lệnh năm điều để làm tan thế đoàn kết của bọn chúng.
Đô-uý Chu Khải hỏi:
– Chúng ta là người Hán, đi cai trị bọn Nam-man. Nếu chúng nó nổi loạn
thì mang quân đi dẹp, há sợ gì? Tại sao đại nhân phải ban hành pháp lệnh làm gì cho mệt.
Nhâm Diên nói:
– Đô-uý biết một mà không biết hai. Dân chúng Cửu-chân đều quy tụ vào
chín nhà, nếu chúng ta dẹp hết chín nhà, thì Cửu-chân chỉ còn là bãi đất hoang. Cho nên bản nhân mới theo Tôn-tử binh pháp: "Dụng binh chi đạo,
toàn quân vi thượng, phá quân thứ chi"
Nghĩa là: Đạo dùng binh cần bảo vệ lấy quân hơn là tổn hại quân sĩ. Cho
nên thuộc hạ chỉ dùng có một tờ giấy, viết năm điều pháp lệnh, mở rộng
cho người Hán, người Việt được bình đẳng, được kết hôn với nhau, lại cho người Việt làm quan chức, dạy chữ thánh hiền, lễ nghĩa cho chúng...
Một võ quan dáng người uy nghi, còn trẻ ngồi ghế chủ toạ nói:
– Tuyệt! Chúng ta là con cháu Văn-vương, Chu-công, Khổng-tử. Nhà Đại Hán coi thần dân như con đỏ. Thái-thú ban pháp lệnh cho người Việt được như người Hán, cho người về Trung-nguyên mượn những nho gia khoa bảng thất
thời sang đây dạy dỗ họ, đúng như Khổng-tử nói "Giáo bất biệt hoại",
nghĩa là khi dạy học thì không phân biệt giống người. Làm như vậy vừa
được âm đức vừa làm sáng nghĩa của Khổng Mạnh.
Đào Thế Kiệt cố moi óc xem võ tướng trẻ tuổi này là ai, nhưng ông đoán
không ra. Cứ thấy dáng điệu đường bệ của y và cung cách lễ phép của Nhâm Diên, ông cũng đoán sơ rằng viên võ quan này có địa vị không nhỏ.
Nhâm Diên nói:
– Thuộc-hạ không thực tâm như vậy, chẳng qua là muốn tâm chiến giai đoạn mà thôi. Thuộc hạ còn ký lệnh phong cho năm Lạc-hầu làm Huyện-úy. Thế
là từ đấy, quan binh Hán cứ ngồi chơi, người Việt gây loạn thì dùng
huyện úy người Việt mang bản bộ quân mã cũng là người Việt đi đánh. Cho
nên pháp lệnh ban ra mấy năm, đi đâu cũng chỉ nghe bàn đến Tam-hoàng,
Ngũ-đế, Chu-công, Văn-vương, Khổng-tử mà không hề nghe nói đến
Hùng-vương. Lúc trà dư tử