u, để dò la tin tức gia đình hai sư đệ hiện
phiêu bạt phương nào. Đến ngày lên đường thì Trịnh Quang vẫn còn phải
nằm trên võng cho đồng môn khiêng đi.
Đoàn người khởi hành từ tờ mờ sáng, đến khi hoàng hôn, thì xa xa hiện ra hai dãy núi chặn ngang trước mặt.
Phạm Bách chỉ núi cho Hoàng Thiều Hoa và Đào Kỳ coi rồi nói:
– Kìa là núi Tam-điệp, tẻ ra hai hòn núi Thiết-giáp và Thần-đầu. Giữ hai ngọn núi là con sông Chính-đại đổ ra cửa biển Thần-phù.
Ghi chú của thuật giả
Vị trí này ngày nay nằm về phía Nam Phủ-lý 79 km, cảnh rất đẹp. Hai hòn
núi Thiết-giáp và Thần-đầu kẹp con sông Đáy vào giữa. Phong cảnh tú nhã, nữ sĩ Hồ Xuân Hương thấy cảnh sông núi tượng hình cái của quý của đàn
bà, đã tả rằng:
Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là Kẽm-trống không?
Theo sách Phong-thuỷ ký thì chỗ con sông bị kẹp, giữa lòng có xoáy nước. Nếu táng mả tổ tiên vào đây, thì đời đời trong họ sẽ sinh ra những vị
nữ lưu xinh đẹp, làm nghiêng ngửa giang sơn. Vua Thiệu Trị ra Bắc kinh
lược, thấy địa thế kỳ lạ không dám đi qua sợ bi ô uế thân thể một vị đế
vương, bắt dân chúng đào một con sông phía sau núi mà đi.
Hoàng Thiều Hoa mơ màng nhìn giang sơn đẹp như gấm, như hoa, hỏi:
– Cách đây mấy hôm một sư huynh có nói cửa biển Thần-phù ghê sợ lắm, ai
qua đó khó biết rằng sống hay chết. Chỉ người nào phúc lớn mới qua khỏi
mà thôi. Không biết có đúng không?
Phạm Bách đã qua đây nhiều lần rồi, nên rất am tường địa thế:
– Đúng đấy, cửa Thần-phù là nơi nhiều con sông gặp nhau gồm sông
Hồng-hà, sông Mã, sông Vân-sàng, và sông Đáy. Sông thì sâu, nước chảy
mạnh, thành ra những xoáy lớn. Thêm gió từ biển thổi vào ngược chiều
xoáy. Hoá cho nên thuyền bè bị nước xoáy một chiều, gió thổi một chiều,
nên hầu hết đều chìm.
Trời chập choạng tối thì đoàn người đã vượt qua ngọn núi Thiết-giáp, lọt vào thung lũng núi Thiết-giáp và Thần-đầu. Phạm Bách chỉ cho đệ tử Đào
trang ngủ trong một ngôi đền lớn.
Ngôi đền không biết được xây từ bao giờ. Lớp ngói đỏ đã dầy những rêu
xanh bao phủ. Tường gạch đỏ đã có chỗ lõm vào, tỏ ra đền đã chịu không
biết bao nhiêu tuế nguyệt. Trước đền có hai con voi, hai con ngựa bằng
đá xanh, được tạc rất khéo. Trên lưng voi, ngựa là tượng hai người lưng
đeo cung tên, tay cầm gậy trong tư thế chiến đấu. Sân đền rộng mênh mông trồng nhiều hoa thơm cỏ lạ. Cổng đền được xây bằng đá, trên nóc đắp hai con rồng tranh châu. Hai bên cổng là hai cây đa cao vút tới tận mây
xanh. Giữa sân là một cái hồ sen, hoa nở bốc hương thơm ngào ngạt, trước đền có chữ đề Cao Đại vương linh từ.
Phạm Bách ra lệnh cho con trai ông là Phạm Quang Minh:
– Con dẫn anh em Đào trang với người của mình vào nhà sau, kiếm chỗ nghỉ và nấu cơm ăn. Con làm cho bố mâm cơm tinh khiết để cúng Cao đại vương.
Thiều Hoa, Đào Kỳ định vào nhà sau, thì Phạm Bách gọi lại:
– Các cháu theo bác.
Ông dẫn hai người dạo quanh đền, rồi chỉ bãi cát trước sân kéo dài tới bờ biển. Ông thuật:
– Đây là chiến địa cuối cùng thời An-dương vương.Vương chạy đến Hoa-lư
thì anh em đại tướng Cao Nỗ, Cao Tứ mang nỏ thần ra bắn lui quân Triệu
Đà. Nhưng quân Triệu đông hàng mấy vạn, trong khi anh em Cao tướng quân
chỉ có mấy trăm. Vì vậy ông bị bại. Anh em vừa đánh vừa rút tới đây thì
sức cùng lực kệt. Ông thúc An-dương vương chạy vào Nam, còn anh em tử
chiến chận giặc. Tại chỗ này, Triệu Đà thấy ông có tài muốn mua chuộc,
cho người đến trại chiêu hàng. Đà hứa nếu ông chịu quy thuận thì cho cai trị đất Giao-chỉ. Này cháu Thiều Hoa! Đào Kỳ! Nếu các cháu là Cao tướng quân thì các cháu sẽ xử trí như thế nào?
Thiều Hoa đáp:
– Thưa bác, cháu giết chết sứ giả, tử chiến một trận. Tuy không thắng
cũng làm cho giặc kinh hồn táng đởm, rồi chết cho thoả chí người Lĩnh
Nam. Bọn Triệu Đà võ công không cao, tín nghĩa không có, chỉ nhờ xảo
quyệt mà đắc thế, người cầm gươm không thể cùng cộng tác với hắn.
Đào Kỳ cười khúc khích.
Hoàng Thiều Hoa nghiêm nét mặt mắng:
– Tiểu sư đệ! Chị chưa tính tội tiểu sư đệ về vụ Nghiêm Sơn. Nay còn đùa nữa sao? Trước khi xảy ra trận đánh cảng Bắc, sư mẫu dặn em rằng: Mọi
chuyện nhất nhất phải nghe chị. Nay sao em dám cười chị. Chị nói vậy
không đúng hay sao?
Đào Kỳ càng cười lớn:
– Bố em thường cho rằng chị là người ôn nhu, mà chí khí như bậc nam nhi, quả đúng. Nhưng giữa chí khí nam nhi và khí phách của bậc anh hùng thì
khác nhau xa lắm. Em cười là cười chị có chí khí nam nhi mà không đủ khí phách của bậc anh hùng.
Hoàng Thiều Hoa xịu mặt xuống nàng nói dỗi:
– Tiểu sư đệ! Thì ra tiểu sư đệ có khí phách anh hùng đấy. Ta, Thiều
Hoa, xin kính cẩn rửa tai nghe khí phách tiểu anh hùng của sư đệ.
Đào Kỳ vỗ tay vào lưng sư tỷ, nó nheo mắt, thè lưỡi nhát Thiều Hoa:
– Ngày xưa nước Việt có nàng Tây Thi, đẹp tuyệt trần. Nhưng mỗi lần nàng giận hờn, cau mặt càng đẹp hơn. Vừa rồi chị cau mặt coi càng đẹp. Em là tiểu sư đệ còn muốn nhìn huống hồ người ngoài... Mọi khi em đùa đến đâu sư tỷ cũng hỷ xả bỏ qua. Không hiểu sao mấy ngày hôm nay bề ngoài thì
sư tỷ làm như bình thản, mà trong lòng nóng như lửa đốt. Trong khi tình