
thâm hậu chứ! Và chỉ có những kẻ ôn nhu mới làm như nàng. Mà trên đời, đâu phải bất cứ thiếu nữ nào cũng ôn nhu?
Hắn quay mình lại, cảm tạ lượt nữa :
– Nhuế tôi còn sống ngày nào, là ngày đó không quên được cô nương…
Nhưng hắn thấy Lưu Dục Chi cúi đầu, chừng như có ý thẹn. Nàng hẳn nhớ đến việc mỗi ngày, Nhuế Vĩ đều ra chốn cũ gọi nàng, bây giờ, đối diện với nhau, làm sao nàng không kích động tâm tình?
Nhuế Vĩ không biết nên nói gì thêm cho hợp cảnh, bỏ dở câu nói, lâu lắm, chưa tiếp nối.
Lưu Dục Chi cất tiếng :
– Nghe nói trong mấy hôm nữa, có khách giang hồ đến xâm phạm khu vực này. Các hạ hãy liệu đối phó.
Nhuế Vĩ giật mình nghĩ thầm :
– “Còn nói chi cái ý cảm kích đến suốt đời? Còn vài hôm nữa thôi, người của Hắc bảo sẽ đến đây, mình chết đi thân phận bị bại lộ, tính mạng không bảo toàn, thì nói gì cho lắm cũng vô dụng”.
Đau lòng hết sức, hắn lặng thinh, quay mình bước đi ngay.
Lưu Dục Chi lấy mắt tiễn đưa hắn đến khi hắn khuất dạng, cõi lòng tràn ngập thê lương. Nàng không rõ, mình có đồng tình với đối tượng chăng, hay nàng thương hại con người tịch mịch? Người ta tịch mịch, hay chính nàng tịch mịch? Ít nhất cũng có ba người tịch mịch. Giản Thiếu Vũ, ở tận phương trời lạ, gã công tử thay thế, hiện diện bên cạnh, và nàng! Mỗi người tịch mịch một cách!
Nhuế Vĩ về đến phòng, trầm tư một lúc lâu. Sau cùng hắn lấy quyết định, mang theo bức địa đồ vùng cấm địa, bất chấp ban ngày, đến đó ngay.
Bởi hắn nghĩ nếu phải chết, thì nên chết sao cho đáng giá. Nếu mấy hôm nữa, người trong Hắc bảo đến đây, thân phận hắn bị bại lộ, hắn mất mạng là cái chắc rồi, chết như vậy thì đối với ân công, ân chưa tròn, nghĩa chưa vẹn, bất lợi cho người, chết mà không mang ích lợi cho ân công, thì chết làm chi? Chung quy, tính mạng ân công vẫn bị hăm dọa như thường! Thì tại sao không mạo hiểm, may ra tìm được tuyệt nghệ, nhờ tuyệt nghệ đó hắn cứu vãn bao nhiêu đổ vỡ! Thắng Hắc bảo, là bảo toàn bí mật, là tạo an ninh cho ân công, mà chính hắn cũng được vô sự, trong thời gian ước định.
Muốn thắng Hắc bảo, thì phải có nhiệm màu. Nhiệm màu sẵn có ở phía hậu khu rừng nhân tạo đó, tại sao không đến lấy? Mạo hiểm? Có một đại thành công nào không mua bằng cái giá mạo hiểm!
Trước khi vào tận chốn nguy, hắn còn phải tránh những cái nguy dọc đường, tránh tai mắt của người trong Thiên Trì phủ. Hắn đến Vạn Thọ Cư, không gặp trở ngại nào, rồi hắn vào rừng, chiếu theo sự chỉ dẫn trên địa đồ đi tới, không lâu lắm, đến chỗ ngộ nạn lần trước.
Bây giờ thì hắn bình tĩnh lắm rồi, không còn khẩn trương như trước, phần lớn nhờ ánh thái dương chiếu sáng, khỏi phải dò dẫm khó khăn từng bước. Hắn phát giác ra, lần trước sở dĩ ngộ nạn là vì một bước chân hớ hênh. Nếu hắn cẩn thận một chút, thì đâu đến nỗi bị Phan Trung Hư nghi ngờ?
Một cơ quan thứ nhất bị hắn phá thủng rồi, cho đến nay, người trong phủ chưa tu chỉnh lại, thế là còn đúng mười bảy chỗ mai phục nữa. Hắn hết sức dè dặt, đi qua khỏi từng cơ quan một, đi suốt con đường rừng vừa hiểm nguy vừa dài.
Trước mắt, hiện ra năm lối rẽ, con đường rẽ thứ tư là an toàn, đó là con đường chánh dẫn đến vùng cấm địa. Hắn đi hết con đường đó, đến một ngôi mộ cực kỳ hùng vĩ, mộ hình tròn, cao độ bốn vóc người, rộng trên hai mươi trượng, dài độ năm mươi trượng. Bốn phía mộ là rừng, do người trồng lên.
Muốn vào ngôi mộ, hắn phải biết bay, bằng không thì phải sa vào mê trận của vòng đai rừng nhân tạo đó.
Nhuế Vĩ luôn luôn đề cao cảnh giác, bước từng bước một đến gần ngôi mộ.
Bức địa đồ không ghi chi tiết về địa thế của khu này, hắn sợ đạp nhằm cơ quan mai phục.
Ngờ đâu rừng cây nhân tạo này, trái với khu rừng thứ nhất, được trồng lên để làm cảnh chứ không có một trận thế nào được bố trí trong đó, hay một cơ quan giết người được mai phục chờ kẻ manh tâm.
Nhuế Vĩ đến trước phần mộ an toàn vô sự.
Ngôi mộ được kiến trúc bằng thứ đá bạch ngọc đẽo gọt bằng phẳng, chồng vào nhau, xếp hàng lối trông như một khối duy nhất. Dù tinh mắt đến đâu cũng khó nhận ra những mối ráp.
Nơi giữa mộ có một tấm bia, cao ba vóc người, rộng bằng bốn người đứng gộp lại, bằng đá hắc ngọc, một mặt có khắc mấy chữ: “Giản Thị Nhất Mạch Gia Tộc chi mộ”.
Nhuế Vĩ thầm nghĩ :
– “Hai tiếng “Nhất Mạch” này, phải giải thích như thế nào? Chẳng lẽ họ Giản chỉ có một dòng từ trên truyền xuống mỗi đời chỉ có một con trai sao? Nếu có từ hai con trai trở lên, thì sao? Giả như có nhiều con trai, thì chẳng lẽ chỉ có một người có đủ tư cách được mai táng tại đây?”
Hai bên mộ có ba tấm bia khác, cũng lớn, tả hai, hữu một, bia thứ nhất có hàng chữ lớn: “Đệ nhất đại Giản Công Lạc Quan”, bên cạnh có hàng chữ nhỏ :
“Thê Lưu Bí Hoa hiệp táng”.
Bia thứ hai có hàng chữ: “Đệ tam đại Giản Công Xuân Kỳ”, kèm theo thêm hàng chữ nhỏ: “Thê Lưu Hạnh Thủy hiệp táng”.
Bia thứ ba có hàng chữ: “Đệ nhị đại Giản Công Yến Chân”, bên cạnh có hàng chữ nhỏ: “Thê Lưu Phi Ngọc hiệp táng”.
Hiển nhiên, đời thứ ba là phụ mẫu thân sinh của Giản Thiệu Vũ, còn đời thứ hai và thứ nhất là tổ phụ và tằng tổ phụ của y.
Nhuế Vĩ hết sức lấy làm lạ, tại sao cả ba đời đều