
đường đêm này qua đêm khác chỉ để ngóc cổ nghe nó dạo nhạc và để tương tư chiếc bóng của nó in trên rèm cửa sổ.
Nhưng đến phút chót, tôi kềm lại được. Không hiểu sao tôi cảm thấy ngường ngượng khi phải nói ra chuyện đó. Tôi bèn nói lảng sang chuyện khác:
– Thế Quyên có biết tôi làm bài thơ đó cho Quyên trong trường hợp nào không?
Nhỏ Quyên có vẻ bất ngờ trước câu hỏi của tôi.
– Khoa nói gì? – Nó ngơ ngác hỏi lại.
Tôi bình tĩnh lặp lại câu hỏi, giọng cố tỏ ra tình tứ.
Lần này thì nhỏ Quyên biết chắc là nó không nghe nhầm. Vì vậy, nó tròn xoe mắt:
– Bài thơ đó do Khoa sáng tác?
Tôi đọc được sự sửng sốt trong ánh mắt và trong câu hỏi của nhỏ Quyên và tới lượt tôi tròn xoe mắt:
– Ủa, thế Quyên không bết tôi là tác giả bài thơ đó hay sao?
– Khoa đừng xạo! – Nhỏ Quyên nhăn mũi – Bài thơ đó đâu phải của Khoa!
– Của tôi! – Tôi mím môi.
– Không phải của Khoa!
Thái độ bướng bỉnh của nhỏ Quyên khiến tôi điên tiết. Tôi nhếch môi:
– Tôi sẽ chứng minh cho Quyên thấy.
Nhỏ Quyên thách thức:
– Khoa chứng minh đi!
Cố nén giận, tôi nhắm tịt mắt đọc một lèo bài thơ.
Đọc xong, tôi mở mắt ra:
– Quyên tin chưa?
– Tin rồi.
– Thấy chưa! – Tôi hả hê – Thế mà khi nãy Quyên bảo bài thơ đó không phải của tôi.
Nhỏ Quyên thản nhiên:
– Bây giờ Quyên vẫn nghĩ thế thôi.
Tôi chớp mắt, ngạc nhiên:
– Quyên bảo Quyên tin rồi cơ mà.
– Quyên tin là tin chuyện khác! – Nhỏ Quyên chúm chím – Quyên tin Khoa là người có trí nhớ tuyệt vời. Bài thơ dài như thế mà Khoa đọc qua vài lần đã nhớ vanh vách.
Nghe nhỏ Quyên khen mà tôi muốn xỉu. Tôi đâu phải là người có trí nhớ siêu hạng như nó tưởng. Học vocabulaire, tôi ôn trước quên sau, ôn sau quên trước. Khi làm bài tập rédaction, tôi luôn bí từ vựng, phải xoay qua xoay lại đến mỏi cổ để hỏi thằng Hồng Hà. Trí nhớ tôi thuộc hạng trung bình, tôi chỉ có tài làm thơ cho người tôi thương và dĩ nhiên thuộc làu làu những bài thơ do chính tôi thức khuya sáng tác.
Nhưng nhỏ Quyên vẻ như nhất quyết không tin điều đó. Nó cứ nghĩ tôi là thần đồng. Nó tưởng tôi là Lê Quý Đôn tái sinh. Khổ nỗi, nó càng đánh giá tôi cao vòi vọi, tôi càng có cảm tưởng tôi đang rơi xuống vực sâu hun hút.
– Quyên lầm rồi! – Tôi nhăn nhó – Trí nhớ tôi thuộc hạng bét. Mọi người đều bảo thế.
Nhỏ Quyên cười:
– Khoa đừng khiêm tốn.
– Tôi không thèm khiêm tốn! – Tôi khổ sở – Tại Quyên không biết đó thôi. Tôi học bài không bao giờ thuộc. Vào lớp thường xuyên phải hỏi bạn bè. Bạn bè không nói thì tôi len lén cóp-pi. Từ bé đến nay tôi bị thầy cô phạt về tội cóp-pi không biết bao nhiêu lần.
Tôi hùng hồn kể tội mình. Tôi hạ mình xuống sát đất. Chỉ để mong nhỏ Quyên tin bài thơ đó là của tôi và tôi viết ra chính là để tặng nó. Nhưng dù tôi chấp nhận làm thân con kiến hèn mọn, văn dốt võ nát, nhỏ Quyên vẫn khăng khăng:
– Khoa buồn cười quá! Tại sao Khoa cứ phải nhận mình là tác giả một bài thơ vốn không phải của mình?
– Của Khoa mà!
Tôi nói như mếu, trông tôi lúc này giống hệt một em bé yếu ớt bị đứa bạn to khỏe giành mất đồ chơi và đang nước mắt nước mũi sì sụt cố đòi lại. Nhưng tôi xem ra còn thất thế hơn em bé đáng thương kia, bởi vì tôi không có cách gì chứng minh được bài thơ đó là của mình. Phải chi trước đây tôi gửi bài thơ đó đăng trên báo Bạn Trẻ, bây giờ tôi còn có thể chìa tờ báo ra để làm “vật chứng” nhằm xác định bản quyền.
Đang nghĩ tới đó, óc tôi chợt lóe lên. Đúng rồi, tôi không có “vật chứng”, nhưng tôi còn “nhân chứng”. Thằng Đông Anh còn sống sờ sờ kia chứ đã chết đâu! Tôi mừng quýnh:
– A…
Tôi reo lên hớn hở. Nhưng tiếng reo vừa mới thốt khỏi cửa miệng bỗng đột ngột tắt ngóm. Óc tôi lóe lên lần thứ hai, và lần này thì tôi hoang mang thực sự: Hay thằng Đông Anh chính là bạn trai của nhỏ Quyên? Chết rồi, đúng nó! Nó thương nhỏ Quyên nhưng không nghĩ ra cách nào tỏ tình bèn dụ tôi làm thơ tặng em gái nó. Tôi là đứa dễ bị phỉnh phờ, mới nghe thằng Đông Anh gian ác ca ngợi vài câu vờ vịt, liền tối về cặm cụi ngồi làm thơ “nộp” cho nó. Và khi bài thơ tình tứ đó lọt vào tay, chắc chắn nó không đưa cho nhỏ Đinh Lăng, mà ba chân bốn cẳng chạy tới “dâng” cho nhỏ Quyên, mạo nhận nó là tác giả khiến nhỏ Quyên cảm động và hân hoan đáp lại tình cảm của nó.
Càng nghĩ ngợi tôi càng nghe lạnh toát sống lưng. Hèn gì nó không tiếc lời khen tôi “Mày là thiên tài. Mày là Rimbaud của Việt nam”. Té ra toàn những lời lếu láo, xằng bậy. Còn tôi ngu như bò, nghe người ta bốc mình lên mây, không cần biết thực hư đã hoan hỉ chui đầu vào cạm bẫy. Tôi không nhớ tuồng chữ của Đông Anh nhưng bây giờ thì tôi có thể quả quyết tuồng chữ trong giấy kia chính là của nó.
Nhỏ Quyên thấy tôi “a” lên một tiếng chấn động rồi tự nhiên xụi lơ, bần thần nghĩ ngợi thì ngạc nhiên lắm.
Đợi một lúc lâu, không thấy tôi nói thêm tiếng nào, nó dè dặt hỏi:
– Khoa làm sao thế?
Tôi ngẩng lên, nhìn sâu vào mắt nhỏ Quyên:
– Tôi hỏi thật Quyên nhé.
– Khoa hỏi đi.
Tôi liếm môi:
– Quyên bảo bài thơ đó không phải của tôi, vậy chứ Quyên có biết bài thơ đó của ai không?
– Quyên đã nói rồi. Bài thơ đó do bạn trai của Quyên làm tặng cho Quyên.
Lần