inh ra ở nước Đại Thụ phương tây. Cha mẹ ngài làm nghề hái củi. Khi
sinh ngài, đầu có ba sừng, trán mọc bốn mắt, mình cao tám thước, hai tay dài chấm đất. Cha mẹ ngài cho là yêu tinh, đem vứt vào núi băng. Ai ngờ trên núi ấy có một con khỉ già đắc đạo, đi ra kiếm ăn, thấy trên đầu đức Phật, có làn khói trắng xông lên ngất trời, hùm beo đều phải xa lánh. Con khỉ biết người này có lai lịch khác thường, liền bế về trong động nuôi nấng. Không ngờ đức
Phật đã mang sẵn tính chất thông minh, biết giảng đạo Phật, ngày nào cũng cùng con khỉ tham thiền, đàm đạo, nói làu làu làm cho hoa trời bay xuống phất phới. Sau một ngàn năm, ngài bay lên thành Phật. Đến nay trên núi còn thấy chỗ giảng kinh, hoa trời man mác, ai cầu gì cũng linh ứng. Ngài thường hiện hình, cứu vớt tai nạn cho người ta. Vì thế người đời mới dựng miếu tô tượng phụng thờ.
Phượng Thư nói:
– Điều đó có gì làm bằng cứ?
– Mợ lại khéo bài bác. Cần gì phải có bằng cứ mới rõ là Phật. Nếu mà nói dối, thì cũng chỉ lừa được một vài người thôi, không lẽ xưa nay bao nhiêu người sáng suốt cũng đều bị lừa cả ư? Mợ nghĩ xem, chỉ có nhà Phật là từ xưa tới nay, khói nhang không dứt, thế thì phải có gì linh nghiệm trong việc hộ nước giúp dân, người ta mới tin phục chứ?
Phượng Thư nghe nói rất có lý, liền bảo:
– Đã thế thì ngày mai tôi đi xem. Trong miếu bà có thẻ không? Tôi đến xin một quẻ. Nếu mà trên thẻ nói rõ được việc trong bụng tôi, thì từ nay tôi sẽ tin.
– Thẻ của miếu chúng tôi rất là linh nghiệm. Ngày mai mợ đến xin một quẻ thì biết.
Giả mẫu nói:
– Thế thì cháu cứ đợi cho đến ngày kia là ngày mùng một sẽ đi xin.
Nói xong, Đại Liễu uống nước rồi đến gặp Vương phu nhân hỏi thăm sức khỏe và về.
Đến tảng sáng ngày mồng một, Phượng Thư miễn cưỡng sai người sửa soạn xe ngựa, dẫn Bình Nhi và nhiều đầy tớ khác đến chùa Tán Hoa. Đại Liễu cùng bọn ni cô đón vào chùa. Sau khi uống trà xong, Phượng Thư liền rửa tay đến trên điện lớn thắp hương. Phượng Thư cũng không để ý gì, đi xem tượng thánh, chỉ một lòng thành kính, khấu đầu rồi giơ ống thẻ lên, đem những việc thấy ma và thân thể đau ốm khấn vái một hồi. Vừa lắc được mấy cái, bỗng “soạt” một cái trong ống bật ra một chiếc thẻ. Phượng Thư lại khấu đầu rồi nhặt lên xem thì thấy viết:
“Quẻ thứ ba mươi ba, thượng thượng đại cát”.
Đại Liễu vội vàng xem sổ thì thấy trên thẻ viết: “Vương Hy Phượng mặc áo gấm về làng”.
Phượng Thư thấy mấy chữ ấy, giật nẩy mình, vội hỏi Đại Liễu:
– Xưa cũng có người gọi ta Vương Hy Phượng à?
– Mợ rất là thông hiểu xưa nay, không lẽ cũng không biết chuyện ông Vương Hy Phượng đời nhà Hán đi cầu quan à?
Chu Thụy đứng một bên cười, nói:
– Năm trước cô xẩm họ Lý đã kể câu chuyện ấy. Chúng tôi thấy cô ấy kể cũng trùng tên với mợ, nên tôi không cho kể nữa.
Phượng Thư cười:
– Ừ, phải đấy, thế mà tôi quên mất.
Chị ta nói xong, xem phía dưới, thấy viết:
Năm xa làng nước trọn đôi mươi,
Áo gấm nay về vườn cũ chơi.
Ong đã hái hoa thành được mật,
Vì ai cay đắng, ngọt vì ai?
Người đi đến. Âm tín chậm. Việc kiện nên giải hoà. Việc hôn nhân hãy bàn lại.
Phượng Thư xem xong cũng không rõ ràng lắm.
Đại Liễu nói:
– Xin mừng cho mợ, thẻ này rất hay. Mợ từ lúc nhỏ, sinh trưởng ở đây, đã khi nào về Nam Kinh đâu. Giờ đây, ông lớn làm quan ngoài, hoặc giả đón gia quyến đến, rồi nhân tiện về thăm nhà, thế chẳng phải là mợ “mặc áo gấm về làng” đó sao?
Cô ta vừa nói, vừa sao ra một bản thẻ khác, trao cho a hoàn.
Phượng Thư cũng nửa tin nửa ngờ. Đại Liễu dọn cổ chay ra, Phượng Thư chỉ nếm một tý, rồi đặt đũa xuống định về, lại đưa số tiền hương đèn. Đại Liễu giữ mãi không được, đành phải để cho chị ta về. Phượng Thư về đến nhà, gặp Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi đến thẻ rồi bảo người giảng nghĩa, tất cả đều rất lấy làm mừng: “Hoặc giả ông lớn thật có ý định như thế thì chúng ta đi một chuyến cũng hay”
Phượng Thư thấy mọi người nói thế, nên cũng tin.
Một hôm Bảo Ngọc ngủ trưa dậy, không thấy Bảo Thoa, đang định hỏi thì Bảo Thoa đi vào. Bảo Ngọc hỏi:
– Đi đâu mãi không về?
– Tôi xem quẻ thẻ cho chị Phượng một chốc.
Bảo Ngọc nghe nói, liền hỏi. Bảo Thoa đọc lên một lượt những lời trong quẻ thẻ. Rồi nói
– Trong nhà, ai cũng nói tốt, theo ý tôi thì trong bốn chữ “áo gấm về làng” còn có duyên cớ khác, sau này sẽ rõ.
Bảo Ngọc nói:
– Mợ cứ hay nghi, giải nghĩa lệch lạc ý thánh, bốn chữ “áo gấm về làng” từ xưa tới nay, đều cho là tốt, nay mợ lại nói là có duyên cớ! Theo như mợ nói, thì bốn chữ “áo gấm về làng” ấy còn có cách giảng giải khác nữa hay sao?
Bảo Thoa đang định giảng thêm, thì thấy bên nhà Vương phu nhân sai người sang mời mợ Hai. Bảo Thoa liền đi sang ngay.
1 Theo âm Trung Quốc thì chữ Vương và chữ Vong đều đọc như nhau, cho nên mượn chữ “Vương nhân” đồng âm để rủa Vương Nhân là người quên mất nhân nghĩa.
2 Tức Vương Tử Đằng.
Chương 102: Phủ Ninh Quốc, Ruột Thịt Bị Tai Ương Vườn Đại Quan, Phù Thủy Trừ Yêu Quái
Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Thoa. Bảo Thoa vội vàng đến hỏi thăm sức khỏe. Vương phu nhân nói:
– Em Ba con sắp đi lấy chồng, con là chị dâu, phải dặn dò,