
uyên văn Hán Việt: Hạm cúc sầu yên lan khấp lộ, la mạc khinh hàn, yến tử song phi khứ. Minh nguyệt bất am ly hận khổ, tà quang đáo hiểu xuyên chu hộ. Tạc dạ thu phong điêu bích thụ, độc thướng cao lâu, vọng tận thiên nhai lộ. Dục ký thái tiên kiêm xích tố, sơn trường thuỷ khoát tri hà xứ! – ND.
Hóa ra chẳng cần gió tây thổi cây biếc rụng, nẻo chân trời sớm đã bị vận mệnh cắt đứt mất rồi, khiến con người ta chẳng có chút cơ hội nào để vẫy vùng phản kháng, dù có không cam tâm đến mấy thì cũng đành quay trở về con đường ban đầu mà gắng sức bước đi, bước đi đến lúc sức cùng lực kiệt, đến lúc lìa đời.
Khi mà lan khóc sương, cúc buồn khói đọng, những tấm màn là giữa chốn hoàng cung lẳng lặng buông lơi, nhưng vẫn chẳng thể ngăn chặn sự giá lạnh nơi lòng người. Tôi cố gắng ngoảnh đầu qua một bên, dưới mái hiên cặp én bay đi thẳng, lòng xiết nỗi thê lương, con người còn chẳng bằng chim én, có thể chắp cánh cùng bay với bạn tình của mình.
Y thấp giọng nói: “Có Diễm Quý nhân và Uẩn Dung, giờ ngay đến Thẩm Thục viện cũng đã có thai, thấy bọn họ ai nấy đều đắc sủng, ta cứ luôn cảm thấy cuộc sống của nàng chẳng dễ chịu gì, dù nghe nói rằng Vị Ương cung tựa như chốn nhà vàng xa hoa rất mực.”
“Nhà vàng khóa chặt nhốt A Kiều, Vương gia sợ ta có ngày cung Trường Môn gần sát, chẳng chịu tạm quay xe[12'> sao?” Tôi khẽ cười. “Chùa Cam Lộ giống như cung Trường Môn vậy, ta là người đã trở về từ đó. Còn về việc có dễ chịu hay không, tất cả đều phụ thuộc vào ta chứ chẳng liên quan gì tới người khác.”
[12'> Trích Thiếp bạc mệnh, Lý Bạch. Nguyên văn Hán Việt: Trường Môn nhất bộ địa, bất khẳng tạm hồi xa. Bài thơ này nói về quá trình từ đắc sủng tới thất sủng của Trần Hoàng hậu Trần A Kiều thời Hán Vũ Đế, ban đầu A Kiều được xây nhà vàng cho ở, trở thành Hoàng hậu vinh hiển tột cùng, nhưng về sau thì dần bị ghẻ lạnh, chẳng được nhà vua đoái hoài đến nữa. Qua bài thơ thi nhân đã phần nào lột tả vận mệnh bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Câu được trích là nói về lúc A Kiều đã bị phế ngôi Hoàng hậu, bị giam lỏng trong cung Trường Môn, Hán Vũ Đế ngồi xe đi ngang qua nhưng chẳng chịu ghé vào – ND.
“Vậy sao?” Y chợt nhìn tôi chăm chú. “Nàng nhất quyết về cung là vì rất nhiều nguyên nhân, nhưng cũng có một phần là bởi con của hoàng huynh với nàng, lẽ nào nàng thấy y trái ôm phải ấp mà vẫn có thể coi như không thấy ư?”
Y nói giọng hùng hổ dọa người, tôi nhất thời nghẹn họng không nói được gì, một thoáng sau mới chợt giật mình nhận ra… không ngờ y lại đang thăm dò xem tôi có thật lòng để ý tới Huyền Lăng không.
Tôi rất nhanh đã giấu tâm trạng thật của mình đi, hờ hững nói: “Vậy Vương gia cho rằng bản cung nên ghen tuông dữ dội hay là cả ngày rửa mặt bằng nước mắt? Hoàng thượng không thể chỉ có một mình bản cung, cớ sao bản cung phải cưỡng cầu? Thương tâm cũng phải sống tiếp, mà không thương tâm cũng thế, vậy thì việc gì phải thương tâm?” Tôi nhìn sâu vào mắt y. “Có một số việc, đối với Vương gia mà nói cũng là như thế.”
Huyền Thanh nở một nụ cười thương tâm và bất lực, chợt nói sang chuyện khác: “Nói tới Diễm Quý nhân, nàng có nhớ việc trước đây ta từng đồng ý với nàng là sẽ mời nàng xem xiếc thú không?”
Tôi tất nhiên là nhớ, mỗi lời y từng nói tôi đều nhớ cả.
Tôi chợt hiểu ra. “Nữ tử huấn luyện thú mà ngày đó Vương gia nói đến chính là Diệp Lan Y?”
Cặp mắt y trong veo như nước, lộ rõ vẻ xót xa. “Ngày đó nàng ta tuy thân phận thấp kém, nhưng so với bây giờ thì tự do tự tại hơn nhiều.”
Lòng tôi bỗng trào lên một nỗi niềm chua xót. “Vương gia không phải là nàng ta, cớ sao lại biết nàng ta không thật lòng vui vẻ?”
Huyền Thanh hơi cúi xuống, ống tay áo mỏng khẽ phất qua hàng lan can sơn màu đỏ sậm. “Có thật lòng vui vẻ hay không, chưa hẳn là chỉ có bản thân mới biết.”
Tôi khẽ nở nụ cười, đưa mắt nhìn ánh trăng bàng bạc như sương như tuyết trên mặt đất. Kỳ thực không phải ánh trăng lạnh như sương tuyết, mà là lòng người ngắm trăng sớm đã đông cứng lại rồi, cho dù thấy cảnh hoa lê kiều diễm nở đầy cành thì cũng chỉ cho rằng là băng tuyết trắng phau đậu ở đó mà thôi. “Nếu không thể thật lòng, con người ta đúng là khó có cách nào vui vẻ được.” Rồi tôi lại hỏi: “Hai người quen nhau lâu chưa?”
“Cũng chưa lâu lắm, chẳng qua là năm đó nàng ta bị thương khi huấn luyện thú, ta đã mời thái y chữa trị cho nàng ta.” Y cất lời cảm khái: “Nhớ khi xưa Diễm Quý nhân tuy chỉ là một nữ tử cô độc nhưng vẫn còn có được tấm thân tự do, còn bây giờ đã là Quý nhân nhưng mỗi hành động đều bị người ta để ý, qua đó đủ thấy sự đời nhiều biến chuyển, không phải chỉ có một người quay cuồng giữa những sự khổ đau.”
Tôi cũng không nghĩ nhiều, chỉ lẳng lặng nhấm nháp mấy chữ “sự đời nhiều biến chuyển” mà y vừa nói, lòng thầm chua chát không thôi, tựa như vừa ăn phải một quả mận còn xanh ngắt. “Trăng còn có khi tròn khi khuyết, huống chi là đời người vốn lắm sự bể dâu.”
Cặp mắt màu hổ phách của y như bị nỗi ưu sầu bao phủ. “Con người còn chẳng bằng được vầng trăng, bởi mỗi tháng vầng trăng còn được tròn vành vạnh một lần. Cho dù là Ngưu Lang, Chứ