
ua tan giữa tiết trời mùa khô. Khăn tay bịt mặt, hai tay bám
chặt thành xe, nhưng người tôi cứ chồm lên thả xuống liên hồi. Xe vẫn chạy với
tốc độ rùa bò. Nhiều, rất nhiều đoạn đường, xe hết nghiêng bên này lại nghiêng
bên nọ, do cơ man những ổ voi nối tiếp nhau trải dài tưởng chừng bất tận. Bụi
chui vào trong xe, nhuộm tóc tai, lông mày, lông mi... mọi người vàng quạch, bất
kể các ô cửa kính cabin đều đóng chặt. Không khí trong thùng xe ngột ngạt, khó
thở. Những tiếng ho khục khạc vì sặc bụi cứ râm ran. Mệt nhoài vì người ngợm bị
hành hạ tra tấn liên tục, tôi cảm thấy các khớp xương đau nhừ, và đầu óc cứ ong
ong, váng vất... Rất may là sau khi vượt qua đoạn đường “đau khổ,” với độ dài mấy
chục cây số, trước mắt tôi là thị xã Stung Treng,... chấm dứt một ngày rong ruổi
qua miền đất chết Siêm Păng.
Mùa
khô đầu tiên… Mùa khô nơi vùng Đông bắc Campuchia... Mùa khô của những cánh rừng
khộp…
Nắng
chói chang gay gắt ngay từ khi mặt trời lên cho đến lúc mặt trời lặn. Không khí
nóng hầm hập suốt ngày, bởi trời luôn đứng gió. Những dòng suối không còn nước
chảy. Thú rừng, chim muông cũng rời bỏ rừng khộp mà đi... Chỉ cây lá giang vẫn
lên xanh giữa mùa khô nắng lửa. Chỉ những cây bồ ngót rừng, lên xanh cho bữa canh
bộ đội…
TỪ STUNG TRENG ĐẾN SAMBOK – KRATIE
Nếu
ai hỏi quốc lộ nào trên thế giới có những ổ voi to nhất, tôi sẽ không ngần ngại
trả lời: đó là Quốc lộ 13 từ Stung Treng đi Kratie, với chiều dài trên dưới 150
km, đường xấu đến nỗi xe thiết giáp M113 cũng không thể chịu nổi.
Đội
hình rời Stung Treng khoảng bảy giờ sáng sau bữa cơm nóng…
Khi
qua ngã ba QL13 và 19 khoảng hơn 10 km, thì chúng tôi bước vào địa giới của tỉnh
Kratie, trên bản đồ ghi là Sambok (có lẽ là một huyện của tỉnh)… lại một lần nữa
đi qua những nơi, mà cách đây vài ngày chúng tôi còn phải tranh thủ chạy – thở
để vào Stung Treng (không thì QK7 cắm cờ, QK5 không hoàn thành nhiệm vụ…) nơi
này anh Siêu nện một trái cối 60 thằng tài xế Pốt vĩnh viễn ra đi... nơi đây thằng
Pốt chạy xuống bờ sông, núp dưới những lùm sậy bị chúng tôi chơi hai quả M79… nồi
cơm đi vào lịch sử với ba tầng khác nhau.
Tôi
ngồi trên chiếc M113 thứ tư của đội hình, ôm tấm bản đồ của toàn vùng… nhớ lại
con đường 19 từ Đức Cơ đỏ quạnh, với những trận đánh để đời không thể nào quên…
những anh em đã ngã xuống… những cung đường phải vượt qua trong đêm tối… mặc
cho chiếc xe M113 đang chao qua đảo… anh xạ thủ súng máy nghiêng ngửa theo xe,
miệng lúc nào cũng phát âm tiếng Đan Mạch rất là chuẩn.
Con
đường nằm giữa hai hàng cây… bụi mù và hoang tàn không thể tưởng tượng được, chắc
có lẽ khi người Pháp làm con đường này, cũng không thể nào hình dung ra nó tàn
tệ đến như vậy.
Phumi
Prek Preah, là Phum đầu tiên chúng tôi tiếp cận, sau hơn một giờ ngồi trên xe tập
vũ điệu gồ ghề… khi cách Phum chừng 200 m trinh sát chúng tôi nhảy xuống xe,
vào Phum này để xác định có dân ở hay không… không có gì… ngoài cảnh vắng lặng
đến ghê người…những ngôi nhà cũng khá đẹp hầu như không có ai ở trong nhiều năm
hoang phế…lá cây rụng phủ đầy lối đi một lớp dày…chỉ có hàng cây vú sữa là còn
xanh tươi với trái trĩu cành, anh em bộ binh cũng nhảy xuống, và đảo quanh xem
tình hình, nhũng Phum làng sao đẹp thế với những rừng cây tươi mát mà hoang vắng
đến lạ, hình như Pốt chỉ có phá đi, tiêu hủy đi, chứ không thấy xây dựng cái
gì, ngay cả các cột mốc cây số cũng bị phá.
Phum
Sre Sray cũng không có gì khác, cũng con đường hư nát chạy qua Phum, có nhiều
con đường mòn nhỏ cắt ngang, một con nai chà (nai già) thình lình giật mình bỏ
chạy vào rừng, nhưng cũng không kịp so với sơ tốc đầu đạn của một loạt AK của một
anh lính BB nào đó, nó ngã xuống và các nhà giải phẩu học lại có điều kiện thực
tập… Hoang vắng điêu tàn…
Sre
Sbov một Phum kéo dài theo hai bên đường chừng hơn cây số, có lẽ nơi đây là
trung tâm của khu vực này, có bóng dáng người dân ở, những ngôi nhà sàn mái
ngói, bên trong có giường chiếu, bàn ghế hẳn hoi, nông cụ vứt bừa bãi cùng với
đạn của các loại súng, có hai chiếc xe tải còn mới đậu ngay sát bìa rừng, trên
xe chở đầy cá khô và những thứ khác. Trong một căn nhà sàn sang trọng bậc nhất
có treo tấm hình của Pốt phóng to (có lẽ là nhà của Lục Thum hay Ăngka gì đó)
chén sứ Trung Quốc, đũa ngà, quốc phục màu đen của Pốt vứt vương vãi trên sàn.
Tranh
thủ có gạo sẵn và nồi niêu, chúng tôi dừng đội hình và nấu cơm trưa, anh nuôi
nhanh chóng nổi lửa, các đơn vị triển khai cảnh giới phía sau bìa rừng, không
cho phép ai đi lung tung sợ phải vấp mìn của địch.
Thịt
con nai được quấn trong những bó lá Lốt, nướng lên thơm phức, lính ta bỏ hết
bát sắt và ăn bằng chén sứ Trung Quốc (loại nhỏ có bốn chữ xung quanh: Có ngày
ăn bốc).
Lâu
lắm rồi anh nuôi mới được phục vụ anh em bữa cơm ngon lành giữa đường hành
quân.
Ăn
cơm xong đội hình tiếp tục lên đường…
Lúc
này chúng tôi bắt đầu cẩn thận, vì chuẩn bị bắt liên lạc với anh em QK7, càng về
cuối đường 13 đường càng