
hút để có thể nhìn thấy khuôn mặt tôi. Nước mắt long lanh trong đôi mắt anh, sau đó anh lại ôm lấy tôi, ghì nghiến tôi vào lòng.
“Ta đã phải đưa mọi người ra khỏi Thông Khẩu,” anh giải thích. “Rồi lại phải coi sóc các con an toàn trên đường đi …”
Những việc làm đó, mãi về sau tôi mới hiểu rõ, chính là cái đã thay đổi địa vị của chồng tôi, từ chỗ chỉ là con trai của vị trưởng thôn tốt bụng, hào phóng trở thành người đứng đầu hết sức khả kính.
Toàn thân anh run rẩy khi anh nói thêm, “ta đã đi tìm nàng bao lần.”
Rất nhiều bài hát của đàn bà xứ tôi thường có câu “tôi không có cảm xúc gì với chồng mình” hay “chồng tôi không có cảm xúc gì với tôi.” Đó là những lời hát quen thuộc, dùng trong những đoạn điệp khúc, nhưng vào cái ngày hôm đó tôi đã có những cảm xúc sâu sắc với chồng mình, và ngược lại anh cũng vậy.
Khoảnh khắc cuối cùng của tôi ở Cẩm Điền bồng bềnh mờ ảo. Chồng tôi hậu tạ đồ tể rất hào phóng. Tuyết Hoa và tôi ôm chặt lấy nhau. Cô định tặng tôi chiếc quạt mang về nhà, nhưng tôi muốn cô giữ nó, bởi nỗi buồn khổ của cô vẫn đong đầy còn tất cả những gì tôi đang cảm thấy là hạnh phúc. Tôi chào tạm biệt con trai Tuyết Hoa và hứa sẽ gửi cho thằng bé sách vở để nó học chữ viết của đàn ông. Sau cùng, tôi cúi xuống bên con gái Tuyết Hoa. “Chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau,” tôi nói. Rồi tôi lên xe và chồng tôi giật nhẹ dây cương. Tôi ngoái lại nhìn Tuyết Hoa, vẫy tay chào, rồi quay về hướng Thông Khẩu - về nhà tôi, gia đình tôi, cuộc sống của tôi.
KHẮP HUYỆN, MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐANG BẮT TAY vào tái thiết cuộc sống của mình. Những người còn sống sót qua năm đó đã trải qua quá nhiều chuyện, đầu tiên là đại dịch thương hàn, sau đó là cuộc nổi loạn. Chúng tôi đều kiệt quệ - về cảm xúc, bởi những mất mát - nhưng cũng may là còn sống sót. Chúng tôi dần dần hồi phục. Đàn ông lại ra đồng và đám con trai lại quay về gian phòng lớn để học tập, còn đàn bà con gái thì lại nghỉ ngơi trong căn buồng trên gác để thêu thùa và dệt vải.
Ngày trước, thỉnh thoảng tôi cũng tò mò đôi chút về địa hạt bên ngoài của nam giới. Giờ thì tôi thề sẽ không bao giờ bén mảng thêm lần nữa. Cuộc đời của tôi là ở trong buồng phụ nữ. Tôi hạnh phúc khi được thấy khuôn mặt của các cô em dâu và mong ngóng được cùng họ may vá, uống trà, hát và kể chuyện suốt các buổi chiều dài. Nhưng điều này vẫn chẳng là gì so với cảm giác của tôi khi được gặp lại các con. Ba tháng là khoảng thời gian vĩnh viễn, trong lòng chúng cũng như trong lòng tôi. Chúng đã lớn lên và thay đổi. Con trai tôi đã bước sang tuổi mười hai trong khi tôi vắng mặt. An toàn tại khu đầu não của huyện Vĩnh Minh được lính triều đình bảo vệ trong suốt thời kỳ loạn lạc, nó đã học hành hết sức chăm chỉ. Nó đã học được bài học quan trọng nhất: tất cả những người đã bước vào nơi cửa Khổng sân Trình, dù ở đâu hay nói phương ngữ gì, đều đọc những cuốn sách giống nhau và tham gia những kỳ thi như nhau để cho quan niệm trung thành, chính trực và độc tôn được duy trì khắp đất nước. Dù ở những huyện xa kinh thành, hẻo lánh như huyện chúng tôi, các quan lại địa phương - tất cả đều được đào tạo theo một phương thức giống nhau - sẽ giúp người dân có thể hiểu mối quan hệ giữa họ với hoàng đế. Nếu con trai tôi đi đúng theo con đường đó, thì một ngày nào đó chắc chắn nó sẽ tham gia các kỳ thi này.
Năm đó, tôi gặp Tuyết Hoa nhiều hơn cả khi còn con gái. Chồng chúng tôi không ngăn cản, mặc dù quân nổi loạn vẫn hoành hành ở một số vùng khác. Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, chồng tôi tin tưởng rằng tôi sẽ được an toàn dưới sự bảo vệ của đồ tể, còn đồ tể thì khuyến khích vợ đến chơi nhà tôi, vì anh ta biết rằng cô luôn mang về quà biếu nào là đồ ăn, sách vở hay tiền. Chúng tôi được ngủ chung với nhau ở nhà tôi hay nhà Tuyết Hoa, còn chồng của chúng tôi thì sang ngủ ở phòng khác để chúng tôi có thời gian tâm tình với nhau. Đồ tể không dám phản đối, vâng theo sự chỉ đạo của chồng tôi trong chuyện này. Nhưng làm sao họ có thể ngăn chặn bất cứ điều gì trong đó - những chuyến đến thăm nhau, những đêm ở cùng nhau, những chuyện riêng tư thì thầm với nhau? Chúng tôi không sợ trời nắng, trời mưa hay tuyết rơi. “Tuân phục, tuân phục, tuân phục, rồi hãy làm những gì mình muốn.”
Tuyết Hoa và tôi tiếp tục gặp nhau ở Phủ Vĩ vào những dịp hội hè như mọi khi. Gặp lại chú thím tôi, những người mà cả cuộc đời sống thuận hòa trong gia đình nên đã được mọi người yêu kính, cũng tốt cho cô. Thím tôi luôn được yêu quý như bà nội đối với tất cả những đứa “cháu nội” của bà. Đồng thời, địa vị của chú tôi đã được nâng lên cao hơn so với khi cha tôi còn sống. Anh trai tôi cần chú chỉ bảo trong việc đồng áng và quản lý tiền bạc, và vì thế chú được nể trọng. Không ngờ chú và thím về cuối đời lại được hạnh phúc như vậy.
Năm đó khi Tuyết Hoa và tôi tới Miếu Cô Bà, chúng tôi cảm tạ rất sâu sắc và chân thành. Chúng tôi dâng lễ, khấu đầu tạ ơn vì chúng tôi đã qua được mùa đông vừa rồi. Rồi chúng tôi khoác tay nhau đến chỗ quán khoai của ông lão Chu. Ngồi ở đó chúng tôi lên kế hoạch cho tương lai của hai đứa con gái và bàn luận về cách bó c