
ừ từ lộ ra sau nếp gấp đầu tiên. Lúc đó, tôi không biết nhiều chữ trong nữ thư cho lắm, nên thím tôi đã đọc cho tôi nghe. “Mình được biết trong nhà bạn có một cô bé tính tình thùy mị nết na, hiểu đạo công dung ngôn hạnh. Bạn và mình sinh cùng ngày, cùng năm. Sao chúng ta không trở thành đôi bạn tương giao của nhau nhỉ?” Bây giờ tôi nhìn vào cái nhúm lông mềm mại đã viết nên những dòng chữ này và không chỉ thấy lại Tuyết Hoa thời con gái mà còn nhìn thấy Tuyết Hoa khi đã trở thành một người đàn bà - người đàn bà bền bỉ, thẳng thắn và vị tha.
Tôi đưa mắt nhìn theo những nếp gấp và thấy lại sự lạc quan phơi phới và niềm vui của chúng tôi, sự ngưỡng mộ lẫn nhau và những điều chúng tôi đã hứa với nhau. Tôi thấy chiếc vòng đơn giản này đã trở thành một kết cấu tinh xảo bằng những bông tuyết xen kẽ với bông huệ để tượng trưng cho cuộc đời của chúng tôi song hành bên nhau như một cặp lão đồng ra sao. Tôi thấy vầng trăng chênh chếch về bên phải trên bầu trời đang rọi xuống chúng tôi. Chúng tôi tựa như đôi cây dây leo rễ quấn vào nhau, như đôi cây cổ thụ đã đứng đó hàng nghìn năm, như đôi uyên ương làm bạn với nhau suốt cuộc đời. Trong một nếp gấp, Tuyết Hoa viết, chúng ta yêu thương nhau thắm thiết và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa xa. Nhưng trong một nếp gấp khác, tôi thấy những hiểu lầm, niềm tin đổ vỡ, và cuối cùng cánh cửa khép lại. Với tôi, tình yêu là thứ tài sản quý báu mà tôi sẽ không thể chia sẻ cho bất kỳ ai, và rốt cuộc chính điều đó đã khiến tôi với người bạn giống tôi ấy chia lìa nhau.
Tôi vẫn đang tiếp tục học về tình yêu. Tôi nghĩ là tôi hiểu được nó - không chỉ tình mẫu tử, mà còn là tình yêu với song thân, tình phu phụ và cả tình cảm với lão đồng nữa. Tôi đã trải nghiệm nhiều kiểu tình cảm khác nhau - nỗi trắc ẩn, sự kính trọng, lòng biết ơn. Nhưng nhìn vào những bức thư mà tôi và Tuyết Hoa đã viết cho nhau trên chiếc quạt bí mật trong nhiều năm, tôi nhận ra rằng mình đã không biết quý trọng thứ tình yêu quan trọng nhất - tình yêu từ sâu thẳm con tim.
Trong những năm cuối đời này, tôi ghi lại tiểu sử hộ nhiều người phụ nữ khác chưa từng học nữ thư. Tôi lắng nghe mọi nỗi buồn và lời than vãn, mọi bất công và bi kịch. Tôi đã chép lại cuộc đời bất hạnh của những con người khốn khổ theo niên đại. Tôi lắng nghe tất cả và ghi lại tất cả. Nhưng nếu như tôi biết nhiều về chuyện của đàn bà, thì tôi lại hầu như chẳng biết chút nào về chuyện của đàn ông, trừ chuyện họ không phải là anh nông dân chống chọi với thiên nhiên thì là người lính trên chiến trường, hoặc một người cô độc đang tự vấn chính mình... Nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy và con người mà tôi cần phải trở thành.
Tôi viết những trang này cho những người đang an nghỉ dưới suối vàng. Mẫu Đơn, cháu dâu tôi, hứa chắc chắn sẽ đốt hết tất cả ngay khi tôi nhắm mắt xuôi tay, vì thế câu chuyện của tôi sẽ đến với họ trước cả linh hồn tôi. Hãy để những lời này giải thích cho hành động của tôi với ông bà tổ tiên tôi, với chồng tôi, nhưng trên hết là với Tuyết Hoa, trước khi tôi gặp lại họ.
điều đó được rút ra từ chính những câu chuyện về đàn ông và đàn bà. Tôi chỉ là một người đàn bà hèn mọn với những ta thán đời thường, nhưng trong thâm tâm tôi cũng diễn ra một cuộc vật lộn như cuộc vật lộn của đàn ông, giữa bản chất đích thực của tôi.
TÔI TÊN LÀ BÁCH HUỆ. TÔI CHÀO ĐỜI VÀO ngày mùng năm tháng Sáu năm Đạo Quang thứ ba. Thôn tôi, Phủ Vĩ, thuộc huyện Vĩnh Minh - cái tên có ý nghĩa là sự Sáng ngời Vĩnh cửu. Hầu hết mọi người ở đây đều thuộc tộc người Dao. Hồi còn bé, tôi thường được nghe những người kể chuyện rong ngang qua Vĩnh Minh kể rằng người Dao đặt chân đến vùng này lần đầu tiên cách đây khoảng một ngàn hai trăm năm vào thời kỳ nhà Đường, nhưng phải một thế kỷ sau thì hầu hết các dòng họ mới đến đây định cư, khi họ chạy trốn quân xâm lược Mông Cổ từ phương Bắc tràn sang. Mặc dù, người trong vùng này chưa có ai là cự phú nhưng hiếm khi chúng tôi túng thiếu đến độ buộc phụ nữ phải làm việc đồng áng.
Gia đình tôi là con cháu họ Di, một trong những thị tộc người Dao đầu tiên và đông đảo nhất xứ này. Cha và chú tôi thuê bảy mẫu đất từ một địa chủ giàu có sống ở phía Tây của huyện. Họ trồng nhiều loại cây như lúa, bông, khoai môn, rau củ. Ngôi nhà của gia đình tôi nổi bật vì có hai nhà kho quay về hướngNam. Có một căn buồng trên gác là nơi sinh hoạt của đám đàn bà con gái trong nhà và cũng là phòng ngủ cho các cô con gái chưa chồng. Các phòng dành cho từng gia đình riêng và một cái chuồng đặc biệt nhốt gia súc nằm bên hông căn phòng chính nơi để những rổ trứng, rổ cam và những xâu ớt khô treo trên thanh rầm chính để tránh chuột, gà, hay một chú lợn chạy rông nào đó. Có một cái bàn và mấy cái ghế đẩu kê sát vách tường. Bếp lò dùng cho việc nấu nướng của thím và mẹ được sắp xếp ở một góc chỗ bức tường đối diện. Căn phòng chính của nhà tôi không có cửa sổ, vì thế, cửa chính luôn được mở ra để đón ánh sáng và khí trời vào những tháng ấm áp. Các căn phòng còn lại thì rất nhỏ, sàn nhà bằng đất nện, và, như tôi đã nói ở trên, lũ gia súc sống cùng với chúng tôi