
ần dần lắng
xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động
đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn
tại.
Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.
A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở
bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ
ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt
vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự
vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và
Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao,
vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một
nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng.
Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có
thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà
giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.”
Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.
A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”
Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ
biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian
bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”
A
Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời
khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng:
đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!
A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra
ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng
nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.
Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.
Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.
Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có
một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt
ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang
hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”
A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.
“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”
Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”
A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”
Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc,
về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.
A Hành sắp xếp
phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”
A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.
Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích
loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?
Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu
thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.
Treo dưới
hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang
tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.
Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”
A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”
Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng
giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến
khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.
Xung quanh nhà
là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên
ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực
trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy
hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong
khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó
canh cửa.
Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi
rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi
cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một
mái nhà.