
tuổi, lại khiến cho Hoàng Đế thoáng chột dạ.
Định Thuần kéo áo Định Loan, khom mình thưa:
“Chúng con xin cáo lui.”
Rồi lôi Định Loan ra ngoài. Định Đường cũng mặt vàng như đất lui ra.
***************************
Đó là lần cuối cùng trong cuộc đời chàng gào khóc, ở trên đầu vai gầy gò của Tứ ca. Nhớ đến khuôn mặt giữ tợn kia của phụ hoàng, chàng thực sự cảm thấy hận bản thân mình. Hận bản thân tại vì sao sinh ra trên đời này, hận sao mình không chết đi, không bằng chết đi còn hơn là sống như vậy.
Sống ở thế gian như kẻ dư thừa, sống mà lại bị cha khinh thường, để cho mẹ phải đau lòng.
Đầu vai gầy của Định Thuần cơ hồ hóa thành bức tường đá, chàng liền cứ như vậy đem toàn bộ bất lực cùng tuyệt vọng mâu thuẫn đặt cả lên trên, để cho toàn bộ nước mắt nóng bỏng hòa thành nỗi bi thương tê tái cõi lòng.
Định Thuần ở bên trông chàng khóc rất lâu, sau đó ngự y giúp bọn họ kiểm tra vết thương. Ngón tay trỏ của chàng bị gãy xương, mặc dù đã đắp xong thuốc rồi, rốt cuộc vẫn không có tí sức lực nào.
Các hoàng tử đều đến năm tuổi thì được học bắn tên, năm ấy chàng vốn đã có khả năng sử dụng một cung nhỏ nặng chừng một tạ, thế mà từ nay về sau lại bị tàn phế. Tay phải của chàng ngay cả bút đều nắm không nổi, lúc cầm đôi đũa không có tí lực nào khiến chàng toát cả mồ hôi lạnh.
Chàng không bao giờ còn khóc nữa.
Nhìn trên lưng Tứ ca có một vết thâm lõm tụ máu – nếu một ném mà trúng vào trên đầu chàng, chỉ sợ bản thân đã không còn tồn tại trên đời này.
Từ đây chàng sẽ không còn cha, hoặc có thể từ trước đến nay chàng vốn chưa từng có một người cha. Một tia hy vọng cuối cùng cũng thành ảo ảnh, hiện thời từ trong mơ tỉnh dậy, còn lại bên mình cũng chỉ có mỗi Tứ ca, luôn luôn yên lặng vô thanh vô tức nhưng sẽ không bao giờ rời bỏ chàng.
Chàng dần dần học cách sử dụng tay trái cầm bút, dùng đũa. Cứ mỗi một sáng sớm sương rơi đầy đất, cho đến mỗi buổi hoàng hôn canh gõ một tiếng vang, dây cung giắt vào trên tay, hằn vào da thịt, hằn vào xương tủy. Nỗi đau đớn này nằm tại nơi sâu trong trí nhớ, chậm rãi đóng vẩy, chỉ có mình chàng biết, rằng bên dưới vẫn đầm đìa máu tươi.
Chàng giống như điên cuồng mà luyện bắn tên, mỗi ngày cánh tay đều có cảm giác vừa đổ cả đống sắt thép ngàn cân, đau nặng đến nỗi đôi đũa cũng không nhấc lên nổi. Nơi ngón tay cái, vĩnh viễn hằn thật sâu một vết dây cung.
Chàng không thể dừng lại đươc. Nếu dừng lại dù chỉ một chút, trong đầu luôn thoáng hiện lên cảnh tượng kia, một cảnh tượng làm cho chàng đau đớn kinh hoàng. Chỉ có liên tục bật dây cung, lắp lên một mũi tên, nín thở tập trung nhắm vào một cái đích kia, đầu chàng mới có thể trống rỗng, mới có thể tạm thời an bình.
Chàng khao khát một sự an bình như thế, tựa như một người ở giữa sa mạc lớn khao khát một giọt nước. Chàng cứ một tên lại một tên, ngày qua ngày không ngừng theo đuổi, vĩnh viễn không thể dừng lại.
“Phập” một tiếng, mũi tên đã cắm ở trên tấm bia, xuyên sâu qua vòng tâm, đầu mũi tên bằng kim loại sắc nhọn dính nước sơn màu đỏ, dưới ánh mặt trời lóe lên một tia sáng bạc lạnh lẽo.
Sau đó thì nổi lên những đợt tung hô như sấm, bọn nội quan inh ỏi hò hét:
“Thất hoàng tử đúng là đỗ đầu trạng nguyên!”
Người thiếu niên ngạo nghễ ghìm cương ngựa, trên khuôn mặt đã có vài phầm khí chất lạnh nhạt của tứ ca Định Thuần.
Võ nghệ của chàng đã được phong là đệ nhất trong đám hậu duệ quý tộc, ngay cả vị hoàng tử thứ sáu là Định Trạm được đích thân Mộ đại tướng quân dạy dỗ cũng không phải là đối thủ của chàng. Tân trạng nguyên khoa võ tỷ thí cưỡi ngựa bắn tên với chàng, cuối cùng cũng phải bại trận. Hoàng Đế còn khen là “con ngựa hoang chạy ngàn dặm của triều ta”.
Tất cả đều đã quá muộn!
Người thiếu niên mười lăm tuổi này đối với những lời khen ngợi cùng tán tụng ào ào như nước cũng lười biếng không buồn để tâm tới.
“Cả ngày lẽo đẽo theo Định Thuần, rốt cuộc cũng học một bộ dạng kỳ quái của Định Thuần.”
Nhị hoàng tử Định Đường ghen ghét nói móc:
“Nhìn cái dáng vẻ của hắn kìa, đừng nói là cho tới bây giờ chưa bao giờ cười, có lẽ ngay cả khóc hắn cũng chưa từng khóc lần nào.”
Chàng quả thực đã không còn khóc.
Rất nhiều năm sau, khi mẫu phi cuối cùng phải chết đi trong nỗi cô đơn lạnh lẽo, chàng cũng không hề nhỏ một giọt lệ. Thân thể của mẫu phi vốn đã suy sụp, có thể thoi thóp nhiều năm như vậy cũng đã là một kỳ tích. Lúc đó chàng còn đang dẫn đại quân xuất chinh đóng tại phía bắc Kỳ Đà, sa mạc cuồn cuộn bão cát tựa như đao kiếm cắt trên khuôn mặt trẻ tuổi của chàng. Cầm trên tay sắc lệnh khẩn cấp từ sáu trăm dặm, lệnh rằng phong cho mẫu phi vừa qua đời của chàng làm Kính Hiền quý phi.
Đó bất quá cũng bởi vì tình trạng chiến tranh đang cấp bách, Nhĩ Cách Khả Hãn của bộ tộc Hồi Hột là cậu ruột của chàng, triều đình một tên hai đích, không thể không lần cuối làm bộ “lá mặt lá trái” này đối với người Hồi Hột.
Một lần cuối cùng ấy, đúng một năm sau chính chàng tự mình dẫn hai mươi vạn kỵ binh giáp sắt quay trở lại chốn thảo nguyên mênh mông, nơi mẫu thân cả đời nhớ thương, nơi mười chín năm qua chàng chưa một lần đặt chân trở về