
còn thiếu mất câu bốn là:
Lưu đắc hiền danh vạn cổ
dương.
[ Tạm dịch thơ:
Nhan Hồi mất sớm thật đau thương,
Tư tưởng dạy người tóc bạc sương.
Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm (1)
Danh hiền lưu mãi cỏi trần dương.
PMTâm '>
(1)
Nhan Hồi vui trong cảnh khốn khổ, sống trong ngõ hẹp chỉ với giỏ cơm và bầu
nước.
(**) Niêm
hoa vi tiếu (拈花微笑, nenge-mishō) nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm
cười. Đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan
mỉm cười.
Hôm nọ, trên núi Linh
Thứu (Gṛdhrakūṭa) trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết
pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại chúng ngơ ngác
chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa)
phá nhan mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố với các thầy tì kheo: “Ta có chính pháp vô thượng trao cho Ma-ha
Ca-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tì kheo, cũng như Như Lai là
chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”. Từ câu nói này, chư vị Thiền sư tiền bối
đã diễn đạt thành: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướng
vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập
văn tự, truyền ngoài giáo pháp, nay trao cho Ca-diếp”. Điều này có ý nghĩa gì?
Đức Phật đã mở bày nhiều
pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho tr người đều được lợi lạc.
Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng
tự nội, tự thực hành thể nghiệm hay tự chứng cảnh giới và hằng sống với cảnh
giới ấy bằng nhận thức trực tiếp về chân lý mà không thể chia sẻ cho người khác
bằng lí luận. Trạng thái giác ngộ vượt ra ngoài nhận thức phân biệt của con
người. Điều đó làm sao diễn tả bằng lời?
Sự thật thì trong giáo lí
giác ngộ giải thoát của Đức Thế Tôn cũng có một sự hiểu biết có thể với tới
được bằng cách tư duy, học hỏi giáo lý, diễn đạt bằng ngôn ngữ; nhưng cũng có
một sự hiểu biết vượt trên lý luận, tư duy và không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Thế nhưng, nếu không diễn
đạt bằng ngôn ngữ, không nói gì cả, thì làm sao để hiểu được? Phải mượn hình
ảnh để ví dụ, để diễn đạt những điều không thể diễn đạt bằng lời. “Niêm hoa” là
cách khai mở kho tàng tuệ giác vượt lên trên lý luận, tư duy, phân biệt bằng
lời đó. Mọi tư duy phân biệt một khi đã bị cắt đứt thì tuệ giác vắng lặng uyên
nguyên bình đẳng trong tâm thức của mỗi chúng sinh vốn vượt ngoài giới hạn của
mọi hình thức tư duy khái niệm sẽ được khai mở.
Do đó, khi Đức Phật đưa
cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca-diếp mỉm cười (vi tiếu) là biểu thị cho pháp
môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn
này chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm
thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.>
"Đây là trà Long
Tĩnh ạ?" Tần Mạt hơi nhíu mày, hỏi.
"Không sai, đây là
trà Long Tĩnh ngon nhất ở Tây Hồ." Biểu tình của Triệu Chu có chút tự đắc,
"Đặc biệt ở khâu chọn trà Long Tĩnh, một mầm một lá, ta mỗi năm cũng chỉ
được có tám lạng."
Tần Mạt buông ra chén trà
tử sa trong tay ra, khẽ cười nói: "Ngàn năm trước, trà này tên là Bạch
Vân, chính là trà cống phẩm. Trà này mỏng mà đẹp, chịu được va dập, nhưng thật
ra hương thơm của Bạch Vân lại ẩn chứa bên trong. Trà xanh cần phải làm nóng,
riêng Bạch Vân lại thích hợp với độ ấm. Sau khi nước sôi, để nguội tám phần, sẽ
không tổn hại đến mùi hương."
Triệu Chu nghe được hai
mắt sáng lên, nghiêng đầu suy tư trong khoảnh khắc, bàn tay không kiên nhẫn vỗ
nhẹ lên bàn, tán thưởng nói: "Nguội đi tám phần, tuyệt diệu!"
"Trà có tám vị,
hương trà và trà thuốc là hai vị, còn lại sáu vị là xanh, hồng, lá, vàng, đen,
trắng, mỗi vị có một tính chất. Dù là pha trà, sao trà, rót trà, chỉ có người
biết tính trà, mới có thể pha ra trà ngon." Tần Mạt lắc lắc đầu, thở dài:
"Chính cái gọi là tốt quá hoá dở, làm sao để giữ được độ ấm tốt, mới là kh
Triệu Chu như có điều suy
nghĩ, nhìn vào ánh mắt Tần Mạt, thưởng thức lại tăng thêm vài phần nghi ngờ.
Lời nói và khí độ của cô bé này không thể là một đứa bé mười mấy tuổi được,
nhưng mặt mũi nàng non nớt, rõ ràng cũng chỉ là một cô nhóc bình thường thôi.
"Còn có hai
điểm," Tần Mạt phảng phất không chú ý đến ánh mắt của Triệu Chu, lại nói:
"Nước cho trà, giống như nước cho cá, nếu cháu đoán không sai, ngài dùng
là nước giếng. Mùi vị của nước giếng này, cũng làm sai vị trà hai phần, nhưng
cũng chỉ có giới hạn mà thôi, gần thành phố này, chắc hẳn cũng không có suối
nước nào tốt?"
Triệu Chu cười sang sảng,
gật đầu nói: "Không sai. Còn điểm kia?"
"Là chén tử sa
này." Bàn tay Tần Mạt nhẹ nhàng vuốt dọc chén, "Chén tử sa này cũng
tính là một tinh phẩm trong dụng cụ trà, bên trong không tráng men trắng, màu
tím này hoàn toàn được phủ một lớp bột trà xanh biếc, thật đáng tiếc. nếu có
thể đổi thành chén sứ trắng hoặc chén bạch ngọc, mới xứng với màu xanh mới
này!"
Vừa nói, nàng vừa lắc đầu,
vẻ mặt thương tiếc.
Triệu Chu nhịn không được
hai tay vỗ nhẹ: "Tuyệt diệu!"
T