
ây tại Mỹ Tho. Rờ-nê học ở Pháp, nhập ngũ theo lực lượng lưu vong của tướng Đờ-gôn, nay lãnh sứ mạng cùng về Nam kỳ với đại tá Xê-đi.
- Chúng tôi là phái bộ Đồng minh tới đây giải giới Nhật.
Một người đứng tuổi trong đám dân quân nói:
Phái bộ Đồng minh gì mà tới vào nửa đêm nửa hôm như đi ăn trộm vậy? Y ra lệnh- Trói ba kẻ gian lại!
Rờ-nê kêu lên:
- Không phải là kẻ gian đâu! Đây là đại tá Xê-đi, Ủy viên Cộng hòa Pháp! Đại tá sẽ là người cầm quyền cao nhất ở Nam kỳ…
Người chỉ huy dân quân cười lạt:
- Nghe giọng nói đã biết mày là Việt gian làm tay sai cho Tây! Bây giờ không ai gọi Nam kỳ mà là Nam bộ. Nước nhà đã độc lập rồi, Ủy viên Cộng hòa Pháp tới đây để làm gì?
Rờ-nê còn lải nhải gì nữa đó, nhưng chỉ huy dân quân nói:
- Chúng tôi giao mấy người cho quân đội Nhật. Muốn gì thì nói với họ.
Đây là điều ba sĩ quan Pháp lo sợ nhất. Rờ-nê ra sức năn nỉ nhưng vẫn bị giải tới toán lính Nhật ở gần nhất. Bọn Nhật đang buồn, không có gì giải trí, vớ được ba tên Pháp, hăm hở bày trò chơi ưa thích. Chúng bắt ba tên Pháp quỳ gối cúi đầu xuống. Một tên tuốt gươm trần đưa lên. Thằng chỉ huy đếm chậm rãi: Ichi…ni…xăn… Rồi chúng cười rộ lên. Tên đao phủ lấy mũi gươm nâng mặt ba tên Pháp lên. Cả ba đều tái xanh, không còn giọt máu. Họ không ngờ đây chỉ là trò chơi thôi.
Bọn Nhật đưa cả ba lên xe, giải về thượng cấp ở Sài Gòn. Xê-đi thoát một cái chết rùng rợn, nhưng vẫn chưa hết lo sợ "Bọn Nhật còn giở trò gì nữa đây?".
Rờ-nê cũng chết điếng. Hắn không ngờ được đón tiếp ghê gớm như vậy khi trở về quê hương trong bộ quân phục chiến thắng của Đồng minh.
Thì ra, vì không nắm được tình hình ở miền Nam nên chúng nhảy dù quá sớm mà cũng là quá trễ. Quá sớm vì quân Anh- Ấn chưa tới Sài Gòn để giải giới quân Nhật như Đồng minh đã quy định. Và quá trễ vì Việt minh đã cướp chính quyền ngay khi Nhật đầu hàng. Có niềm vui nào hơn được sống trong những tháng ngày đất nước vùng lên giành độc lập sau cả trăm năm nô lệ? Có hạnh phúc nào hơn được thấy tuổi xuân của mình hòa nhịp với trái tim của cả nước, ngất ngây trước những trang sử vẻ vang mà chính mình đang góp sức tô điểm?
Hai Vĩnh cảm thấy được điều đó và lao vào cuộc sống hào hùng mỗi ngày càng sôi nổi, càng hấp dẫn. Anh đem hết tâm hồn dìu dắt đội Thanh niên Tiền phong mà ông Tám Mạnh giao cho.
Từ trung tuần tháng tám đến đầu tháng chín, chỉ trong vòng 10 ngày mà có đến ba cuộc xuống đường biểu dương lực lượng. Đầu tiên là cuộc biểu tình ngày 21-8 của nhóm Cao Đài, Hòa Hảo và các tổ chức thân Nhật làm lễ ra mắt Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Có khoảng vài trăm ngàn người kéo tới đại lộ No-ro-đom (nay là đại lộ Lê Duẩn). Chưa rành không khí chính trị, Hai Vĩnh náo nức muốn tham gia mọi cuộc xuống đường để giới thiệu với mọi người đội ngũ Thanh niên Tiền phong của anh. Nhưng ông Bảy Trân kịp thời giải thích cho anh em trong nhóm ông Tám Mạnh biết "Mặt trận Quốc gia Thống nhất" là tổ chức thân Nhật mà Nhật đã là kẻ chiến bại sắp bị đưa ra tòa án quốc tế xét xử, các tổ chức Cao Đài, Hòa Hảo chỉ là những cây tầm gởi không còn sống khi cây cổ thụ phát xít Nhật đã trốc gốc…
Bốn ngày sau, ngày 25-8, Xứ ủy tổ chức cuộc biểu dương lực lượng tại vườn Bồ-rô 2. Thanh niên Tiền phong của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là một lực lượng đáng kể bên cạnh đội ngũ công nhân, lao động và nông dân ngoại thành. Trong cuộc biểu tình, Lâm ủy Hành chính Nam bộ ra mắt đồng bào. Trong Lâm ủy có các ông Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Phi Hoanh, Huỳnh Văn Tiểng…
Nhưng không ai quên được cuộc biểu tình ngày 2-9, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình giữa thủ đô Hà Nội. Tại Sài Gòn, có khoảng hai triệu người xuống đường chào mừng độc lập, tự do mà biết bao thế hệ cha ông đã hy sinh xương trắng máu đào để dân tộc có được ngày chiến thắng huy hoàng rực rỡ hôm nay. Ngoài các lực lượng công nhân, nông dân, lao động, có một đội ngũ được đặc biệt chú ý đến bên cạnh Thanh niên Tiền phong. Đó là anh em giang hồ tứ chiếng mà thiên hạ gọi là "Bình Xuyên".
Dân anh chị đi biểu tình cố nhiên là phải khác thiên hạ! Ba Nhỏ là dân Thị Nghè cưỡi ngựa mang gươm, đầu bịt khăn rằn, theo sau "có một vài thằng con con". Sáu Đối, dân Tân Thuận, đầu quân trong nhóm Ba Dương- Năm Hà, cầm cờ vàng sao đỏ có đuôi như sao chổi và hàng chữ "Tẩy uế quan trường" chẳng hiểu rút từ sách vở nào. Lâm Ngọc Đường cũng cưỡi ngựa, ăn mặc bảnh bao, như một chủ nông trại ở… Pháp. Nhóm ông Tám Mạnh, ngoài các đội Thanh niên Tiền phong của Hai Vĩnh, còn có đội lân của Năm Hồi- với dư âm trận lân râu bạc ở Cầu Dừa năm xưa. Nhóm Bảy Viễn, Mười Trí cũng có mặt, mỗi người một vẻ, nhưng cùng chung một niềm hân hoan: đất nước đã độc lập.
Dân Sài Gòn đổ xô xuống đường, không ai nằm nhà mà chịu nổi trước sức hút của phố phường rực rỡ cờ bay và tiếng chiêng tiếng trống. Dân ngoại thành tràn về như thác. Cờ, băng-rôn, khẩu hiệu, hành khúc. Đằng này hát "Nào anh em ta", đằng kia ca "Việt Nam mến yêu!", "Lên đàng" chen vai với "Khúc khải hoàn". Bỗng mọi người lắng