Người Bình Xuyên

Người Bình Xuyên

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326450

Bình chọn: 7.00/10/645 lượt.

thợ lặn tới mò. Thợ lặn Năm Cần Thơ trổ tài trong hai tiếng đồng hồ, từ ba giờ khuya tới năm giờ sáng, đem về cho bộ đội Tám Mạnh 11 súng Mút, một Mi, một FM và một súng lục.

Nhóm Mười Lực, Bảy Môn ở Thủ Thiêm cũng mướn thợ lặn mò súng. Soái hạm La-mốt Pic-kê (Lamotte-Picquet) bị máy bay Đồng minh đánh chìm trên sông Cát Lái là một kho súng không thể bỏ qua được. Rồi chiếc máy bay hai lườn B.28 "Libêrato" của Anh bị phòng không Nhật hạ tại cống Thủ Thiêm đêm 5-5-1944 cũng rất hấp dẫn với bốn khẩu đại liên "Trây-dơ" (13 ly 2).

Nhờ thợ lặn kiêm luôn thợ đúc tài giỏi, nhóm Mười Lực, Bảy Môn làm chuyện hi hữu là tự võä trang hai đại liên 13 ly 2 và hai anh được mỗi người một cây Côn Đui (Colt 12 ly). Đó là chiến lợi phẩm thu "nguội" trên xác chiếc Libêrato. Còn soái hạm của Pháp thì "dâng" cho bộ đội Thủ Thiêm 40 súng Mút.

Bảy Môn còn dùng kế mỹ nhân mua rượu thịt nhờ chị em trong xóm mang tới nơi đóng quân của Nhật, dụ chúng giao súng cho bộ đội Thủ Thiêm đóng ngoài đình. Nhờ vậy mà kiếm thiêm được một cây "luộc" (lourde), loại đại liên bắn đạn nồi (7 ly 7).

Với tư cách đàn anh trong vùng, Ba Dương tiếp xúc với các đơn vị bộ đội lận cận và nhanh chóng thống nhất lực lượng lại thành một khối. Vấn đề đặt tên cho lực lượng này thật là gay go. Trước kia, người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai nhị, Hai Soái… Ba Dương không muốn lấy tên mình đặt cho bốn đơn vị Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm nhập lại. Anh tìm một cái tên tiêu biểu và không đụng tới đầu óc địa phương. Trong vùng ven đô này có rất nhiều địa danh khét tiếng chống Pháp. Xã Tân Thuận có vùng Dừa Sụp là nơi quy tụ các tay "chọc trời khuấy nước", dân vô gia cư, vô nghề nghiệp, dân trộm cướp, tù vượt ngục, có cả các nhà làm quốc sự đang bị truy tầm. Không xa Dừa Sụp có hàng Mù U, thuộc xã Phú Mỹ, cũng được xem là một giang sơn riêng biệt của các tay giang hồ tứ chiếng. Nhưng nổi bật nhất là Xóm Cỏ, cũng gọi là Hố Bần. Từ ngày nhóm Tư Phương, Mười Nhỏ chọn nơi đây làm sào huyệt thì làng lính không đời nào dám léo hánh tới. Sau khi bàn bạc, tất cả đều nhất trí lấy Xóm Cỏ, Hố Bần đặt tên cho bộ đội mới thống nhất dưới quyền chỉ huy của Ba Dương. Nhưng hai tiếng Xóm Cỏ, Hố Bần nghe không hay, Ba Dương tìm thấy tên vùng này trên bản đồ thành phố Sài Gòn- chợ Lớn là ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng.

Cái tên Bình Xuyên nghe hay hay. Vùng chi chít sông rạch, chữ Xuyên rất thích hợp. Còn chữ Bình gợi chiến công đánh chiếm và bình định. Thế là bộ đội Ba Dương lấy tên bộ đội Bình Xuyên từ ngày ấy.

° ° °

Bảy Viễn và Mười Trí về Sài Gòn đúng vào những ngày sôi nổi ấy.

Lập tức cả hai trở về "giang sơn" của mình gây lại lực lượng. Bảy Viễn đóng đô ở trường đua Phú Thọ, Mười Trí xưng hùng tại Bà Quẹo. Vốn là tay anh chị khét tiếng, mỗi lần vượt ngục từ Côn Đảo về là thêm một chiến công hiển hách, cho nên "nhất hô bá ứng", đám du đãng từ lâu như rắn mất đầu, nay trở về tụ tập dưới "trướng" hai tay giang hồ vừa vượt trùng dương về đất liền. Bảy Viễn đánh các bót lân cận cướp súng. Y lấy xâu các sòng bạc tạo quỹ nuôi quân.

Mười Trí cũng làm "kinh tế mạo hiểm" để mua súng và mộ lính. Ngoài ra, ông còn được một số chủ ngựa đua lạc quyên đóng góp để được tiếng Mạnh Thường Quân trong vùng Hóc Môn- Bà Điểm.

Tất cả các nhóm giang hồ đều thi nhau xây dựng bộ đội trong những ngày lịch sử này.

--------------------------------

169 Lagrandière = Khám Lớn Sài Gòn

Thực dân Pháp không ngồi yên trước phong trào giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Sau bốn năm mất nước về tay Đức quốc xã, chúng dựa thế Đồng minh trở lại chiếm thuộc địa Đông Dương đã lọt về tay phát xít Nhật. Liền sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng, Pháp đã phái hai sĩ quan cấp tá bí mật tới Việt Nam chuẩn bị tái lập ách thống trị lần nữa.

Trong một đêm tối trời cuối tháng tám, dân chúng vùng Tây Ninh nghe tiếng máy bay lướt nhẹ trên bầu trời. Đó là một chiếc phi cơ vận tải C-47, cũng được gọi là Đacôta. Trên phi cơ có đại tá Xê-đi (Cédille) và hai sĩ quan cấp úy. Cả ba người đều nai nịt như ra trận, trên lưng mang dù cẩn thận. Phi cơ đảo một vòng, đèn trong ca-bin bật sáng. Một sĩ quan Anh từ buồng lái bước ra bắt tay đại tá Xê-đi, chúc may mắn. Cánh cửa hông mở ra, Xê-đi làm dấu thánh giá rồi bước ra cửa, cắm đầu nhảy xuống. Dù bọc gió mở tròn như một tai nấm khổng lồ, hãm đà rơi lại. Hai sĩ quan cũng rời phi cơ với động tác thuần thục.

Khi bộ ba cuốn dù lại thì chiếc phi cơ đã biến mất. Xê-đi bảo hai tùy viên:

- Giờ này ở miền Bắc Việt Nam cũng có một Đacôta thả dù ba sứ giả như chúng ta. Đó là ông Pierre Messmer và hai sĩ quan cấp úy như hai ông. Không biết họ có được may mắn như chúng ta không?

Xê-đi chưa dứt lời thì một toán dân quân vũ trang tầm vông giáo mác xông tới bao vây. Xê-đi hất hàm làm hiệu cho một sĩ quan người Việt lên tiếng. Sĩ quan này là trung úy René- Lê Văn Đức, con của Jacques- Lê Văn Đức, điền chủ dân T


XtGem Forum catalog