
ề đạo chính. Ngồi như vậy đến sau trống canh ba bỗng nghe trên mái nhà có tiếng sột soạt, Diệu Ngọc sợ có kẻ trộm, vội xuống giường thiền, đi ra trước hiên, thì thấy bóng mây ngang giời, trăng trong như nước. Lúc bấy giờ tiết trời chưa lạnh lắm. Diệu Ngọc một mình đứng tựa lan can, bỗng lại nghe trên nhà hai con mèo vừa gù nhau vừa kêu.
Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.
Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:
- Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?
Mọi người hoảng sợ, chẳng biết làm thế nào, xúm xít gọi:
- Cô mau tỉnh lại, chúng tôi đây mà.
Diệu Ngọc nói:
- Ta muốn về nhà. Các ngươi có ai giỏi thì đưa ta về.
Đạo bà nói:
- Phòng cô ở đây, chứ còn đâu nữa.
Nói rồi bà ta sai người cầu khấn trước tượng Quan Âm, và xin một quẻ thẻ. Mở thẻ ra xem thì nói là người này xúc phạm phải một âm hồn ở phía tây nam.
Có một người nói:
- Phải rồi! Góc tây nam trong vườn Đại Quan này xưa nay không có người ở, thế nào cũng có ma quỉ.
Thế rồi người chạy cách này, người chạy cách khác rối rít cả lên.
Một ni cô do Diệu Ngọc đưa từ phương Nam đến để hầu hạ mình, cho nên tận tâm hơn mọi người, cứ ngồi trên giường ôm lấy Diệu Ngọc.
Diệu Ngọc ngoảnh lại hỏi:
- Mày là ai?
- Tôi đây.
- Té ra chị đấy à?
Diệu Ngọc nhìn kỹ rồi ôm lấy ni cô, nghẹn ngào khóc nức nở mà nói:
- Chị là mẹ tôi, chị không cứu tôi thì tôi chết mất!
Người ni cô một mặt gọi Diệu Ngọc tỉnh lại; một mặt xoa bóp cho cô ta. Đạo bà múc nước cho uống, mãi đến trời sáng mới ngủ được.
Ni cô liền cho người đi mời thầy xem mạch. Cũng có người nói là vì lo nghĩ tổn hại đến tỳ; cũng có người nói là nhiệt vào huyết thất; cũng có người nói xúc phạm ma quỷ; cũng có người nói là nội cảm ngoại thương, rút cục chẳng có gì là nhất định. Sau cùng mời được một ông thầy đến xem bệnh rồi hỏi:
- Đêm ấy cô có ngồi nhập định không?
Đạo bà nói:
- Xưa nay đêm nào sư cô tôi cũng ngồi nhập định.
- Có phải đêm qua bỗng dưng sinh bệnh không?
- Chính thế.
- Đó là vì tà hỏa nhập vào tim đấy.
Mọi người hỏi:
- Có cần gì không?
- May mà ngồi nhập định chưa lâu lắm, tà hỏa chưa vào sâu, còn có thể chữa được.
Nói xong thầy lang cho đơn "Giáng phục tâm hỏa" sắc thang cho Diệu Ngọc uống. Diệu Ngọc dần dần bình phục.
Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:
- Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.
Qua vài ngày, Diệu Ngọc đã hơi đỡ, nhưng tinh thần chưa thật bình phục, có lúc vẫn còn mơ màng, hoảng hốt.
Một hôm Tích Xuân đang ngồi, thì Thái Bình vào nói:
- Cô có biết chuyện cô Diệu Ngọc không?
- Cô ta có việc gì?
- Hôm qua tôi nghe cô Hình và mợ cả nói chuyện: Cô Diệu Ngọc từ hôm đánh cờ với cô về, đêm ấy bị trúng tà, miệng kêu rầm lên, nói kẻ cướp tới bắt, đến nay vẫn chưa khỏe. Cô thử nghĩ xem, có lạ không?
Tích Xuân nghe nói, im lặng không đáp, trong bụng nghĩ thầm: "Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không". Nghĩ đến đó, Tích Xuân bỗng dưng tinh thần cảm thông, trong lòng như có sở đắc, liền ứng khẩu đọc câu kệ như sau:
Giời đất không bến bờ,
Chỗ nào là nên ở?
Vốn tự chỗ không ra,
Nên về chỗ không đó.
Đọc xong, cô ta sai a hoàn thắp hương, một mình ngồi im lặng, rồi lục sách thế cờ ra xem mấy bài do ông Khổng Dung vào Vương Tích Tân làm ra. 8 Trong đó các thế "Hà diệp bao giải" 9, "Hoàng oanh bác thỏ" 10 đều không lạ lắm. Thế "Tam thập lục cuộc sát giác11), thì trong một lúc cũng khó lãnh hội và khó nhớ. Chỉ có thế "Thập long tẩu mã" 12 là rất có ý tứ. Tích Xuân đang nghĩ ngợi thì thấy ở ngoài có một người chạy vào trước sân, gọi:
- Chị Thái Bình ơi!
1 Nguyên là thể phú, vì hạn chế vần, chúng tôi dịch theo thể này.
2 Tức Lý Dục, vua nước Nam Đường, bị Tống Thái Tông diệt mất nước.
3 Ở hồi 77, theo lời Vương phu nhân nói, thì con Năm đã chết rồi, có lẽ là lầm.
4 Một đồ dùng người xưa thường làm để treo ở ngoài mái nhà có gió thổi thì chạm nhau kêu leng keng.
5 "Ỷ Lan" đã chú thích ở hồi trên. "Tư hiền" là khúc đàn do Chu Văn Vương làm ra khi tìm được Lã Vọng.
6 Một trong mười hai luật đời xưa. Trong mười hai chi thì t