Polly po-cket
Hồng Lâu Mộng

Hồng Lâu Mộng

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 3210825

Bình chọn: 9.5.00/10/1082 lượt.

ừa, chuyển, hợp, trong đó thừa và chuyển đều là hai vế đối nhau, chữ bằng đối với chữ trắc, hư đối với hư, thực đối với thực. Nếu được câu hay khác thường thì bằng trắc hư thực không cần phải đối nhau cũng được.

- Thảo nào khi rảnh, em thường lấy quyền thơ cũ ra xem mấy bài, có câu đối nhau rất chỉnh, có câu lại không đối. Lại nghe người ta nói, các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần, chỉ có các chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu là phải rõ ràng. Xem thơ của cổ nhân, có khi đúng như thế, có khi những chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu lại không thế. Vì vậy lúc nào em cũng lấy làm ngờ. Bây giờ cô nói, thì ra khuôn phép ấy không cần lắm, chỉ cần lời và câu văn cho mới lạ là hay thôi.

- Đúng đấy. Nhưng lời và câu văn là việc phù du, cần nhất phải đặt từ cho sát. Nếu từ sát thực thì lời và câu văn không cần điêu luyện cũng vẫn haỵ Như thế gọi là: "Không nên lấy lời hại ý".

- Em chỉ thích câu thơ của Lục Phóng Ong 4, lời rất thiết thực:

Rèm mau không cuộn hơơng còn mãi,

Nghiên cổ hơi sâu mực đọng nhiều.

- Chớ nên xem loại thơ ấy. Vì chị chưa biết làm thơ, nên thấy những câu nông cạn đã thích ngaỵ Nếu mắc vào khuôn sáo ấy thơ sẽ không tiến được nữa. Chị hãy nghe tôi: chị thích học, ở đây tôi có toàn tập thơ Vương Ma Cật, chị hãy chịu khó nghiền ngẫm kỹ càng một trăm bài thơ ngũ ngôn của ông ta, rồi sau đọc một trăm hai mươi bài thất ngôn của Đỗ Phủ, sau nữa lại đọc độ một, hai trăm bài thất ngôn tuyệt cú của Lý Bạch. Phải lót dạ thơ của ba thi hào ấy đã, sau mới xem đến thơ của Đào Uyên Minh, Ứng Dịch, Lưu Vũ Tích, Tạ Diểu, Nguyễn Tịch, Dữu Lượng, Bão Chiếu. Chị là người thông minh nhanh nhẹn, học chừng trong một năm sẽ thành nhà thơ.

- Cô ơi, đã thế cô cho em mượn sách mang về, đến đêm em đọc mấy bài.

Đại Ngọc bảo Tử Quyên đưa tập thơ ngũ ngôn của Vương Ma Cật cho Hương Lăng và bảo:

- Chị xem những bài nào có khuyên đỏ là tôi đã chọn rồi, có bài nào học bài ấy. Nếu không hiểu nghĩa, chị sẽ hỏi cô Bảo, hoặc gặp tôi, tôi sẽ giảng cho.

Hương Lăng cầm tập thơ về Hành Vu Uyển, chẳng nhìn đến công việc gì, thắp ngay đèn đọc hết bài này đến bài khác. Bảo Thoa mấy lần giục cũng không đi ngủ. Bảo Thoa thấy Hương Lăng mài miệt quá, đành phải để tùy ý.

Một hôm, Đại Ngọc vừa rửa mặt chải đầu xong, thấy Hương Lăng cười hớn hở đem đến giả tập thơ cũ, và mượn tập thơ Đỗ Phủ. Đại Ngọc cười nói:

- Nhớ được tất cả bao nhiêu bài rồi?

- Nhưng bài có khuyên đỏ, em đọc hết cả.

- Đã lĩnh hội được ít nào chưa?

- Em đã lĩnh hội được một ít, nhưng chưa biết có đúng không. Em nói cho cô nghe nhé.

- Cần phải nhận xét bàn bạc mới tiến được. Chị hãy nói cho tôi nghe nào.

- Cứ ý em thì những chỗ hay của bài thơ, có nhiều ý tứ không thể nói ra được, nhưng ngẫm nghĩ lại rất thiết thực; có nhiều câu thơ như là vô lý, nhưng nghĩ rất có lý có tình.

- Nói thế là chị đã có ít nhiều thi tứ rồi đấy! Nhưng do đâu mà chị biết được như thế?

- Em xem bài "Ngoài cửa ải" có câu:

Bãi rộng khói đùn làn thẳng tắp;

Sông dài ác xế mặt tròn vành.

Em nghĩ khói thì "thẳng" thế nào được? Mặt trời tất nhiên là "tròn" rồi. Thế thì chữ "thẳng" như là vô lý, mà chữ "tròn" hình như rất tục. Nhưng sau gấp sách lại ngẫm nghĩ, hình như mắt trông thấy hẳn cái cảnh ấy. Muốn tìm hai chữ khác thay vào nhưng không sao tìm được. Lại còn câu:

Trắng xóa sông ngòi khi ác lặn;

Xanh lè giời đất lúc trào dâng.

Hai chữ "trắng" và "xanh, mới nghe cũng hình như vô lý, nhưng nghĩ kỹ ra thì chỉ có hai chữ ấy mới hình dung hết được phong cảnh. Đọc lên thấy nặng chình chịch như miệng ngậm quả trám ấy. Lại có câu:

Mặt trời rớt lại rơi đầu bến;

Đám khói trơ ra bốc giữa làng.

Chữ "rớt" và chữ "trơ" sao mà họ khéo nghĩ được như vậy. Năm trước, khi chúng em lên kinh, một hôm về chiều, thuyền đậu trên bờ, người vắng, chỉ có mấy cái cây, đằng xa có mấy nhà đang nấu cơm chiều, khói bốc lên màu xanh biếc lẫn với đám mây. Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh ấy.

Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc và Thám Xuân đến, đều vào ngồi nghe Hương Lăng nói về thợ Bảo Ngọc cười nói:

- Đã thế thì không cần phải xem thơ nữa. Chỗ lãnh hội không phải ở đâu xa xôi, cứ nghe nói hai câu ấy đủ biết về chị đã nắm được mấu chốt của cách làm thơ rồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Chị bảo mấy chữ "đám khói trơ ra" là hay, nhưng chị chưa biết đó là bắt chước ý câu thơ của người trước. Tôi cho chị xem câu này, so với câu kia nhẹ nhàng và thiết thực hơn.

Nới xong, liền đưa cho Hương Lăng xem câu thơ của Đào Uyên Minh:

Tờ mờ xóm làng xa,

Trơ vơ khói trên bãi.

Hương Lăng xem rồi gật đầu khen ngợi mãi, cười nói:

- Thế thì chữ "trơ" là do ý hai chữ "trơ vơ" mà ra!

Bảo Ngọc cười to nói:

- Thế là chị đã hiểu lắm rồi, không cần phải giảng giải nữa. Nếu còn giảng giải đâm ra loãng mất. Bây giừ chị cứ làm thơ đi, nhất định là hay.

Thám Xuân cười nói:

- Ngày mai tôi viết thêm một cái thiếp, mời chị vào thi xã.

Hương Lăng nói:

- Cô ơi, sao cứ trêu chọc em thế? Chẳng qua thích thơ, em học để mà chơi đấy thôi.

Thám Xuân, Đại Ngọc đều cười nói:

- Ai chẳng chơi? Không lẽ chúng tôi mới