
tôi đáp, giọng
rầu rầu.
- Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kia
thì ông và tôi ở đâu? Ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không,
tôi cứ mặc cho ông muốn ra sao đó thì ra...
Tía nuôi tôi không đáp. Ông ngồi cầm cái tẩu
dài quăn queo, gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn một
vài giọt mưa từ trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêm
hôm đó, chúng tôi chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cái
nồi cái niêu và một ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi.
Lúc ngang qua chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ.
Thằng Cò sợ ma, ngồi sát vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bước
lên theo tía nuôi tôi. Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói một
vài ngôi sao xa lắc, ông đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơ
đễnh đưa đi đưa lại nhổ những cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạt
trên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống
bên ông.
-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!
Tía nuôi tôi ngó vào ngôi
mộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt.
- Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong số
hai mươi chiếc chú đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chú
đã có thể ngậm cười mà yên nghỉ...
Dứt khoát tôi không tin rằng người chết có
linh hồn. Nhưng cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồng
thời tôi chợt nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khép
lại, chính con người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây,
việc ấy đã làm cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quay
sang tôi:
- Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú Võ
Tòng không?
- Á, nó đâu rồi, tía?
Tôi hỏi lại ông như vậy,
chứ tôi đã đinh ninh là nó chết trong trận cháy rừng rồi.
- Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi con
người. Hôm Tây đốt rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạy
thoát được. Người ta trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổ
nó mà đoán ra như thế... Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uống
gì rồi chết rũ xương ở đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tía
nghe, con ạ.
- Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồng
về, có qua ngang đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nó
rồi.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôi
xuống thuyền. Ông còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mới
bước theo tôi. Nước mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mở
rộng mênh mông. Đứng trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bên
kia, chỉ thấy một vệt dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng.
Chúng tôi đi ròng rã ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơm
ăn, còn thì cứ luân phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặt
sông lao xao phản chiếu ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi về
hướng biển. Mây đen từ chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ một
chỗ không chịu bay đi. Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thác
đổ hơn một ngày đêm. Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chui
thuyền vào núp trong một rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mới
quay ra sông chèo đi.
Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cập
lại bên ngôi quán lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàn
cầu, nơi đã có hai chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắm
sào đỗ lại đó từ bao giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quay
vào tiếp tục cuộc rượu bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướn
người bước lên sàn cầu lát toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới,
những cây mắm lại kêu lắc rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôi
gọi "Luốc! Luốc!" và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theo
nó. Một con kỳ đà bị trói chặt bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗ
cửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba người
khách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Một
ông cụ già cởi trần, râu quăn queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, người
cao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên cất giọng ồm ồm:
- Chào ông bạn!
Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò,
đầu cạo trọc như nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giống
nhau một cách rất buồn cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một người
lại thấp quá. Cả hai cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứng
lại nhìn họ một lát rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vào
ngực, nghiêng người tới trước, nói cách trịnh trọng:
- Kính chào các ông bạn!
Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lên
chào đáp lễ y như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiên
quá đỗi. Về sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khi
gặp nhau muốn tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như co