Snack's 1967
Cửu Dung

Cửu Dung

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326932

Bình chọn: 9.5.00/10/693 lượt.

t hứng, bèn đồng ý. Bảo Bảo xung phong nhận việc ở lại chăm sóc Thẩm Hồng.

[1'> Trích hai câu đầu trong bài từ Thanh ngọc án của Tân Khí Tật thời Nam Tống. Bài từ tả cảnh hoa đăng trong đêm Tết Nguyên tiêu. Hai câu này muốn nói Đèn lồng treo cao tựa như ngàn hoa nở rực rỡ trên cành, bay lên trời rồi rụng xuống như sao.

Nhà thơ Dường-Trương Hộ từng viết một bài thơ miêu tả không khí sôi nổi của Tết Nguyên tiêu, thơ rằng: “Ngàn cửa mở rộng vạn đèn lồng, trung tuần tháng Giêng kinh thành rung.Ba trăm cung nữ vung áo múa, thi tử vang vọng cả không trung [1'>”.

Từ Thẩm gia đi ra, nhà nhà trên đường treo hoa đăng đủ loại đủ kiểu phong phú, có đèn Khổng Minh [2'>, đèn trường minh [3'>, đèn lồng giấy, đèn lưu ly, vân vân và vân vân. Trong chốc lát ấy, thật sự có thể nói là sắc màu rực rỡ, tươi đẹp, hân hoan.

Rẽ vào con phố Văn Hoa phồn hoa nhất, hai bên đường treo đầy hoa đăng muôn hình muôn vẻ. Đăng luân, đăng lâu, đăng thụ cao lớm, rực rõ tỏa sáng lấp lánh. Người đén kẻ đi, muôn hoa đua thắm khoe hồng, thât sự có thể nói là: ”Yến tiệc thơm đẹp ngạt ngào, kìa lan sắc đỏ đón chào đầu xuân. Dặm đất trải rộng muôn phần, phồn quang tuyết trắng vô ngần tầng không [4'>”. Sĩ tử vận trường sam nho nhã, cô nương khoác áo váy phất phơ, các cụ già bạc đầu thượng thọ, đám con trẻ má phấn tóc xanh... Con người muôn sắc muôn hình, xen lẫn trong cảnh đèn đuốc sáng trưng, phảng phất như “người bơi trong bức họa [5'>”

Ngay ở của phòng người thiếp của mấy gia đình có đặt hình nhân một cô nương được bện bằng rơm rạ, vải vụn cao cỡ người thật, đây là phong tục “Đón Tử cô” của Duy huyện. Tử cô trong truyền thuyết là một cô nương thật thà tốt bụng, vì nghèo túng đói rét mà chết đi. Vì thế, mỗi Tết Nguyên tiêu ngày Mười lăm tháng Giêng, mọi người đều bện hình của nàng, cúng bái và chúc phúc cho nàng. sau khi Băng Ngưng nghe nói về phong tục này, rất đồng cảm với Tử cô, bèn chạy đến trước một cửa nhà, cầm tay một “Tử cô” được bện bằng rơm nói chuyện cả hồi lâu, đến lúc xúc động còn rơi nước mắt. Cô bé từng lưu lạc một lần, chịu đủ đói rét, hiển nhiên có một loại tình cảm khác biệt với Tử cô, tự đáy lòng cảm thấy đồng bệnh tương lân.

Trước cửa hàng đều cắm một cành dương liễu và hương, bên cạnh đặt một cái bát, trong bát của những người bần cùng thì để cháo đậu, khoai lang: còn những người ngày thường sống dư dả hơn một chút thì để màn thầu, rau cải, sủi cảo: trước cửa những gia đình phú quý giàu sang thì bày thịt cá ê hề, còn cả rượu thuần chất. Đây là phong tục “Tế nhà tế cửa” trong dịp Tết Nguyên tiêu. Một năm tổng cộng có bảy dịp lễ tế, thì đây là dịp thứ hai trong số đó. Cho nên đối với những người ăn mày mà nói, Tết nguyên tiêu quả là một ngày lành. Bởi vì đắn đêm hôm yên tĩnh, bọn họ có thể tùy ý ăn các mín cúng tế trước cửa nhà người ta, ăn không hết còn có thể gói ghém mang đi, trữ thức ăn dần dần. Những lúc này, chủ nhân cũng không trách móc. Ngày hôm sau, bọn họ mở của ra, thấy đồ ăn cúng tế không còn ở đó nữa, sẽ cho là thần tiên ăn hết, có thể phù hộ cả nhà già trẻ bình an, sống những ngày tốt đẹp.

Chúng tôi đi đến cầu Tứ Thủy, thấy có vài cô nương ăn vận khác nhau, trong tay cầm hoa đăng đánh bạn mà đi. Bởi vậy, Băng Nhi cũng mua bốn chiếc hoa đăng, đưa cho chúng tôi mỗi người một chiếc, đi theo những cô gái kia cùng qua cầu. Phong tục này có tên là” Tẩu bách bệnh”. Nghe nói nữ tử”Tẩu bách bệnh” thì có thể từ bỏ bệnh tật tai họa cho người thân bên cạnh.

Đi qua cầu Tú Thủy, chúng tôi đến miếu Tam Cô Nương. Trước miếu giăng đèn kết hoa, rộn ràng xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Miếu Tam Cô Nương này có tên là miếu Nhân Duyên. Truyền thuyết kể rằng ai tới nơi này, một khi gặp được người trong lòng thì có thể bên nhau trọn đời, hạnh phúc đủ đầy. Tam cô nương trong truyền thuyết là người triều Hán, vì dung mạo tuyệt trần, nghiêng nước nghiêng thành, bị Hoàng đế triệu vào cung làm phi tử. Sau khi nàng vào cung, trong lòng nhớ mong người thương là thanh mai trúc mã bên ngoài, chẳng mấy thì uất ức chết đi. Sau khi Hoàng đến biết chân tướng sự việc, hết sức áy náy và cảm động, vì thế liền đưa di cốt nàng về lại quê hương, cũng xây cho nàng ngôi miếu Tam Cô Nương này. Tình yêu của vản thân Tam Co Nương tuy không mũ mãn, nhưng vì thế lại gieo quyết tâm cho bao đôi nam nữ yêu nhau trong thiên hạ. Vì vậy mỗi lần hiển linh, đều làm mối cho những nhân duyên tâm đầu ý hợp trong thế gian. Trong miếu Tam Cô Nương có một tảng đá, tên là “ Tam Sinh Thạch”, nghe nói nếu bái lạy ở chỗ tảng đá kia, gọi tên người trong lòng thì có thể bên nhau ba đời ba kiếp, mãi chẳng phân ly.

Trước miếu bày biện hai cái sạp. Một xem bói xem quẻ giải xăm, một phụ trách hội Đố đèn. Cái gọi là “hội Đối đèn”, nói thẳng ra là tiêu tiền giải câu đố trên đèn kiếm bạc trắng, mỗi lần giải mất ba văn tiền, giải đúng có thể có được đến ba mươi văn tiền thưởng. Ai giải đúng nhiều nhất còn được phong hài “Trạng nguyên đố đèn” và giải thưởng hai mươi lượng bạc. Bởi vậy, hoạt động này thu hút vô số văn nhân mặc khách, tài tử từ nhân.

Minh Nguyệt Hân Nhi tràn trề hăng hái, án